Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

XẠ HƯƠNG - 麝香

Còn gọi là nguyên thốn hương, lạp tử, hươu xạ, sóc đất.

Tên khoa học Moschus moschiferus L.

Thuộc họ Hươu (Cervidae).

XẠ HƯƠNG, 麝香, nguyên thốn hương, lạp tử, hươu xạ, sóc đất, Moschus moschiferus L., họ Hươu, Cervidae, Hươu xạ và túi xạ, Moschus moschiferus

Hươu xạ và túi xạ - Moschus moschiferus

XẠ HƯƠNG, 麝香, nguyên thốn hương, lạp tử, hươu xạ, sóc đất, Moschus moschiferus L., họ Hươu, Cervidae, Hươu xạ và túi xạ, Moschus moschiferus

Vị trí của xạ hương ở bụng con hươu xạ
1. Lỗ của túi xạ hương         2. Túi xạ          3. Dương vật

Người ta dùng hạch thơm phơi khô của con hươu xạ.

Trên thị trường thường gọi là xạ hương - Moschus.

A. MÔ TẢ CON VẬT

Hươu xạ là một con vật có chân mảnh, cổ ngắn, đầu dài, mõm tròn, có con lớn bằng con hoãng, thân dài độ 0,80 đến 1m, đuôi dài 4-5cm, vai cao khoảng 55-65cm nhưng mông lại cao hơn vai, nặng khoảng 10-17kg; thân phủ lông màu nâu hung.

Con đực có răng nanh dài 8 đến 9cm lòi khỏi mép. Cả hai con đực hay cái đều không có sừng. Đặc biệt ở bụng hươu xa đực vào khoảng giữa rốn và cơ quan sinh dục có một túi tròn hơi phồng dài 5-7cm rộng 3cm, cao 3-4cm. Quanh túi có lông mọc mau, phần giữa trụi lông có hai lỗ thông. Túi này dùng để chứa chất xạ hương do các tuyến của thành túi tiết ra.

Ở con vật trưởng thành, túi chứa đầy xạ có thể nặng tới 60g và hơn. Xạ hương ở con vật sống quánh như mật ong, màu nâu đỏ, để khô chất xạ biến thành một khối lổn nhổn màu nâu hung rồi xám lại dần dần.

B. PHÂN BỐ, SĂN BẮT VÀ CHẾ XẠ HƯƠNG

Hươu xạ chủ yếu sống ở vùng rừng núi cao khoảng 1.000-2.000m, có khi tới 4.000m (Tây Tạng), thường ở những nơi vách núi cheo leo nguy hiểm. Nó ít khi ra khỏi rừng, chỉ thỉnh thoảng mới xuống khe hay lõng. Ban ngày hươu xạ ẩn trong bụi cây, chiều tối mới đi ăn.

Thức ăn của hươu xạ thay đổi tùy địa phương, tùy mùa và rất ảnh hưởng đến chất lượng của xạ hương. Chủ yếu nó ăn rêu, địa y, lá cây, cỏ, đôi khi rễ cây.

Hươu xạ sống đơn độc, chỉ sống với nhau vào mùa động đực. Thời kỳ này cũng thay đổi tùy theo địa phương, nhưng nói chung hươu xạ đực chọi nhau rất kịch liệt, dùng nanh làm vũ khí tấn công. Người ta bắt được nhiều con đực còn mang ở cổ nhiều vết sẹo do đánh nhau mà ra. Cũng chính vào thời kỳ động đực này, hươu xạ còn tỏa ra mùi xạ nồng nặc bay xa hàng trăm thước.

Hươu xạ chửa khoảng 5 tháng, đẻ 1-2 con và thọ độ 3-4 tuổi.

Hươu xạ chạy rất nhanh như sơn dương, nhảy và leo nhanh nhẹn như hoãng. Khi bị đuổi dồn nó có thể lao xuống vực sâu hoặc băng qua suối có nước chảy xiết. Loài này nhút nhát, đa nghi, dễ hoảng hốt khi bị săn đuổi, cho nên việc săn bắt cũng đòi hỏi một số kinh nghiệm; nhưng có điểm đáng chú ý là hươu xạ là loài động vật mau quên, sau phút nguy hiểm nó thường trở lại nơi ăn nghỉ cũ như không có chuyện gì xảy ra, nên dễ bị người đi săn kiên trì nấp rình ở gần đó săn bắt.

Việc nuôi hươu xạ để lấy xạ còn rất ít kinh nghiệm. Có một số vườn thú nuôi hươu xạ, cho nó ăn cơm, rêu, lá cây, rau cỏ và nó có thể sống 3-4 năm; hươu xạ nuôi vẫn có thể cho xạ hương.

Hươu xạ tại Việt Nam ít được khai thác. Người ta có cảm tưởng loài này đã bị tiêu diệt. Nhưng chúng tôi đã có dịp thấy bán ở chợ tỉnh Cao Bằng năm 1962, một con hươu có xạ sống do người ta bẫy được và gặp một cụ đông y ở ngay thị xã Cao Bằng tích trữ được một số túi xạ hương thu mua ngay ở trong tỉnh Cao Bằng. Tại nhiều cửa hàng thu mua lâm thổ sản của tỉnh chúng tôi còn thấy nhiều tấm da của hươu xạ, ngay tại kho da thú của Tổng công ty xuất nhập khẩu lâm thổ sản ở Hà Nội cũng có nhiều tấm da của hươu xạ do các tỉnh vùng Tây Bắc và Việt Bắc gửi về. Do đó cần có kế hoạch điều tra bảo vệ và khai thác, vì ngoài việc lấy xạ hương, hươu xạ còn cho da và thịt như những con thú khác.

Hươu xạ là một nguồn lợi lớn của Trung Quốc, Ấn Độ và vùng Á Đông miền nam Liên Xô cũ. Hằng năm thị trường phương tây tiêu thụ chừng 10 vạn túi xạ. Mỗi kg túi xạ trị giá hiện nay vào 1.000 đô la Mỹ và 1kg xạ hương nguyên chất trị giá tới 80.000 đôla. Phần lớn người ta giết thịt hươu xạ để lấy túi xạ hương. Người ta đã tính rằng, nếu muốn xuất chừng 3.000kg xạ hương thì phải giết tới 100.000 con hươu xạ (vì bình quân 30 túi xạ được 1kg, mỗi túi nặng trung bình 30g), đó là chưa kể số hươu xạ cái và hươu xạ non giết nhầm mà không có túi xạ, vì như trên đã nói, hươu xạ cái và hươu xạ dưới 3 tuổi không có túi  xạ.

Khi bắt được hươu xạ, người ta xẻo ngay lấy chỗ hạch nói trên, thường xẻo rộng hơn một chút rồi treo trong nhà cho đến khi khô; có khi người ta rang cát cho nóng (tay còn chịu được) đổ xung quanh túi xạ, cát nguội lại rang; tiếp tục làm cho đến khi khô. Sau đó cất vào hộp đậy kín. Thường 50 đến 65% trọng lượng của túi xạ là trọng lượng xạ hương nguyên chất.

Muốn lấy chất xạ hương trong túi xạ có nhiều cách: Có khi người ta ngâm khăn vải vào nước ấm vài phút rồi dùng khăn ẩm đó bọc kín túi xạ làm cho túi xạ mềm mại, sau đó cắt bỏ da thịt, lấy chất xạ hương mà dùng; có nơi lấy dùi sắt nung đỏ lăn trên mặt túi xạ cho cháy hết lông, cạo hết lượt da ngoài (có khi để nguyên), thái mỏng đặt lên đĩa, úp một cái bát lên, trát kín mép đĩa và bát bằng lá khoai sọ và cám hay đất dẻo. Đặt đĩa này vào nồi rang có chứa  tro. Đun nóng nhẹ, muốn cho không nóng quá thường người ta đặt trên cái trôn  bát một lá trầu không. Đun lâu và giữ cho lá trầu không bị héo vàng. Làm như vậy cho đến khi khô. Mở bát ra tán nhỏ, cho vào lọ nút kín, dùng dần.

Trên thị trường quốc tế, người ta thường chia xạ hương ra làm 3 loại là: 

   1. Xạ hương Xibêri xuất qua đường biển Bantic.

   2. Xạ hương Ấn Độ xuất qua đường Cancutta.

   3. Xạ hương Bắc bộ (Tonkin đọc là Tôngkinh), Trung Quốc và Tây Tạng xuất khẩu qua Hồng Kông; trong 3 loại trên, xạ hương Tôngkinh được coi là loại quý và giá đắt hơn cả. Có điều là tuy mang tên xạ hương Tôngkinh (Bắc bộ nước ta) nhưng thực tế những năm gần đây ta không có mà xuất.

C. THÀNH PHẦN HÓC HỌC

Xạ hương nguyên chất là một thứ bột lổn nhổn có màu nâu tro. Vị hắc mùi rất hăng nếu ngửi nhiều, nhưng nếu pha thật loãng thì rất thơm. Khi thật khô thường kém thơm, nhưng khi ẩm, mùi thơm thường dậy lên. Xạ hương tan vào nước chừng 55% trọng lượng, nước có màu nâu sẫm, phản ứng axit, với cồn 90o xạ hương chỉ tan chừng 10-13% trọng lượng. Cồn có màu vàng nâu, thêm nước vào sẽ bị đục. Đốt có mùi amoniăc, lượng tro từ 4 đến 6%, không được quá 8%.

Xạ hương chứa cholesterin, chất béo, một chất nhựa đắng, muối canxin và amoniac với tỉ lệ thay đổi, một tinh dầu có thành phần chủ yếu là một chất xeton gọi là muscon C16H30O. Đây là hoạt chất thơm độc nhất của xạ hương. Nếu loại hết mùi tạp chất của xạ hương đi thì mùi muscon rất thơm và rất tế nhị, mùi thơm rất bền, do đó xạ hương thuộc vào loại chất thơm định hương cao cấp. Tỷ lệ muscon trong xạ hương chừng 1%.

IMG

D. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Xạ hương là một hương liệu vào loại cao cấp nhất vì nó cho mùi thơm rất bền.

Trong y dược xạ hương là một vị thuốc được dùng trong cả tây và đông y. Nhưng hiện nay tây y hầu như không dùng nữa. Trái lại đông y coi xạ hương là một vị thuốc không thể thiếu được để điều trị nhiều bệnh nguy hiểm.

Trước đây, tây y dùng xạ hương làm thuốc kích thích, trấn kinh, cường dương, điều kinh, chữa mê sảng của bệnh thương hàn, sưng phổi. Tây y dùng xạ hương dưới dạng cồn thuốc với liều 6 đến 10g trong một ngày pha vào nước đường cho uống. Còn dùng dưới dạng thuốc uống, thuốc viên, thuốc thụt với liều 0,25 đến 2g một ngày.

Đông y hiện nay còn dùng xạ hương một cách rất phổ biến làm thuốc trấn kinh, chữa bệnh suy nhược thần kinh, trúng phong, mê man, choáng váng, đau mắt, cam tẩu mã, v.v...

Theo thống kê năm 1954 của đông y thị xã Bắc Kinh (Trung Quốc) trong số 259 biệt dược được lưu hành có tới 68 biệt dược có chứa xạ hương. Xạ hương là cơ sở của bài thuốc lục thần hoàn, nhân đơn là những thuốc rất  được tín nhiệm trong đông y.

Theo tài liệu cổ tính chất của xạ hương là vị cay, tính ôn, không độc; vào 12 đường kinh. Có tác dụng thông khiếu, thông kinh lạc, làm sạch uế, đuổi tà, là thuốc hồi sinh, trừ trúng độc dùng trong các trường hợp đau bụng, bụng đau dữ  dội, phụ nữ khó đẻ, trúng phong hôn mê, điên cuồng, ngực đau thắt; dùng ngoài tiêu ung thư, sang thũng. Phụ nữ có thai không được dùng.

Liều dùng hằng ngày từ 0,04g đến 0,10g, dùng riêng hay phối hợp với nhiều vị thuốc khác, thường là phối hợp.

Đơn thuốc có xạ hương:

   1. Lục thần hoàn - dùng trong những trường hợp sốt cấp tính, trúng độc, mê loạn, tâm trạng suy nhược: Xạ hương 1g, minh hùng hoàng 1g, băng phiến 1g, tây ngưu hoàng 1,50g, châu phấn (bột hạt trai) 1,50g, thiềm tô 1g. Năm vị trên tán nhỏ, thêm thiềm tô  tẩm rượu, viên bằng hạt cải, lấy muội bếp (bách thảo sương) làm áo cho nên viên có màu đen. Mỗi lần dùng 5-10 viên tùy theo bệnh và sức khỏe.

   2. Thái ất tử kim đĩnh - dùng trong những trường hợp trúng độc do thức ăn, hôn mê ngã quay, chết đuối, tự tử thắt cổ mà ngực còn nóng ấm: Sơn từ cô (Tulipa edulis thuộc họ Hành tỏi - Liliaceae) 80g, thiên kim tử (Euphorbia lathyris - họ Thầu dầu Euphorbiaceae) 40g, hùng hoàng 12g, hồng nha đại kích (Knoxa corymbosa thuộc họ Cà phê - Rubiaceae) 60g, ngũ bội tử 40g, chu sa 12g, xạ hương 12g. Các vị tán nhỏ viên thành thỏi hình trụ, mỗi thỏi nặng 4g. Liều dùng trung bình cho người lớn là nửa đĩnh (thỏi) cho đến 1 hay 2  thỏi. Vì hình dáng vị thuốc trông giống đĩnh vàng (thỏi vàng) ngày xưa nên có tên kim đĩnh.

   3. Chữa thai chết không ra được: Xạ hương 1g, quế chi 8g, hòa với rượu nóng cho uống; nếu cần có thể tăng liều xạ hương lên tới 2g.

Những con vật khác cho xạ ở nước ta:

Con cầy hương, con cỏi hay tu cỏi, Viverricula malaccensis Gmelin, họ Cầy, Viverridae

Cầy hương - Vivericula malacceusis

1. Con cầy hương:

   Còn gọi là con cỏi hay tu cỏi; tên khoa học là Viverricula malaccensis Gmelin thuộc họ Cầy (Viverridae).

   Con cầy hương có thân nhỏ, dài, chân ngắn và đuôi dài bằng 2/3 thân. Mõm nhọn, tai ngắn và tròn. Lông thô cứng có màu xám nhạt hay màu nâu vàng nhạt phớt xám. Dọc lưng có 5 hay 6 giải màu nâu hay đen sắp thành giải dọc nhưng không rõ ràng. Trước mắt và sau tai đều có điểm đen. Đầu, cằm và chân màu nâu. Đuôi có nhiều khoang đen trắng xen kẽ. Thân đo từ mõm đến hậu môn dài từ 53 đến 59cm, đuôi đo từ hậu môn tới mút dài khoảng 38cm.

   Cầy hương sống trong hang hốc ở đất, dưới đá hay trong bụi rậm, có khi ở cả trong những khe hốc nhà bỏ hoang. Ban ngày thường ẩn trong tổ, đến tối mới đi kiếm ăn, nhưng cũng có khi ra ăn cả ban ngày. Cầy hương bắt chuột, rắn, ếch, sâu bọ để ăn. Vì trèo cây được cho nên đôi khi nó bắt cả chim và ăn trứng. Thỉnh thoảng cầy hương cũng vào nhà bắt gà vịt.

   Cầy hương thường để vết xạ thơm theo dọc đường đi; khi giận dữ cầy hương cũng tỏa mùi thơm nức.

   Cầy hương gây tai hại cho người thì ít mà có ích nhiều hơn vì nó tiêu diệt một số lớn động vật có hại cho người như rắn, chuột, sâu bọ. Nó còn cho thịt, da và chất xạ làm thuốc và làm hương liệu.

   Cầy hương còn thấy ở nhiều nước vùng Đông Nam Á như Miến Điện, Malaixia, miền Nam Trung Quốc, Xrilanca, Ấn Độ, v.v...

   Nước ta chưa tổ chức nuôi cầy hương, nhưng ở các nước khác, ở các đảo châu Phi, châu Á (Malaixia) người ta nuôi cầy hương để khai thác xạ.

   Chúng ta biết rằng túi xạ của cầy hương là một tuyến ở giữa hậu môn và dương vật của con cầy. Muốn lấy xạ, người ta nhốt con vật vào một chuồng, hơi chật để cho con vật cử động hơi khó khăn, sau đó người ta ép túi xạ vào chắn song chuồng để xạ hương chảy ra ngoài, có khi người ta dùng một cái cùi dìa rất nhỏ bằng tre để vét xạ trong túi. Xạ lấy được phết trên lá, gạt bỏ hết lông, rửa bằng nước muối hoặc dịch ép của quả chanh rồi phơi hay sấy nhẹ cho khô, cất vào hộp kín.

   Tại Malaixia, người ta còn huấn luyện được cầy hương theo hiệu lệnh tới chìa túi xạ ra chấn song chuồng để tiện cho người lấy xạ.

   Những người nuôi cầy hương đã có kinh nghiệm là càng cho cầy hương ăn nhiều chuối thì chất xạ càng nhiều mùi thơm.

   Muốn săn bắt cầy hương chúng ta có thể dùng chó săn hoặc kết hợp chó săn với chăng lưới trên chỗ cầy hương đi lại là bắt  được.

Con cầy giông, con giông, Viverra zibetha L., họ Cầy, Viverridae

Cầy giông - Viverra zibetha

IMG

Túi xạ của cầy giông

2. Con cầy giông còn gọi là con giông:

   Có tên khoa học là Viverra zibetha L. cũng thuộc họ Cầy (Viverridae).

   Con giống loại lớn có thân dài 73-83cm, cổ mảnh, đầu dài, mõm nhọn và đuôi dài bằng khoảng nửa thân. Bộ lông cầy màu xám hơi phớt vàng nhạt, có điểm nhiều vết đen nâu không rõ rệt xếp gần nhau làm thành nhiều dải gợn sóng vắt ngang lưng, vết đen thành đường chỉ rộng chạy từ cổ tới gốc đuôi, hai bên chỉ có viên sọc trắng. Đầu xám, má cầm màu nâu thẫm. Gáy có 4 dải đen chạy dọc, bụng trắng nhạt, chân nâu thẫm, đuôi có 6 khoang đen.

   Con cầy giông rất phổ biến ở nước ta, từ vùng thấp tới vùng rẻo cao, từ Nam ra Bắc, đâu cũng có.

   Còn thấy ở Châu Phi, ở các nước khác của châu Á như Miến Điện, miền Nam Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Malaixia, Inđônêxia.

   Tại một số nước châu Á như Malaixia, Ấn Độ, châu Phi như Ai Cập, Abitxini, châu Âu như Ý, Đức, Hà Lan đã tổ chức nuôi cầy giông để lấy xạ. Người ta cho giông ăn thịt hoặc cho ăn xen kẽ cơm và chuối; càng ăn nhiều thịt giông càng cho nhiều xạ. Muốn lấy xạ người ta buộc con giông lại, lấy tay ấn nhẹ vào túi xạ làm cho xạ chảy ra tay, sau vét xạ bằng cùi dìa; sau cho nước dừa vào túi xạ cho con vật đỡ đau; mỗi lần có thể lấy tới 4g xạ, mỗi tuần lấy 1 hay 2 lần. Lấy xong cũng làm như đối với cầy hương.

   Chất xạ của cầy hương hay của cầy giông là một chất đồng thể, nhờn, vàng nhạt hay trắng khi còn tươi, để lâu trở nên sánh hơn và có màu nâu, thường kèm theo lông của con vật cho xạ. Mùi hăng rất nồng khai, giống mùi xạ hương thật (moschus - musc) nhưng không tinh tế bằng.

   Xạ hương này có chất amoniăc, tinh dầu, chất mỡ, muối kali và canxi.

   Chất xạ hương của cầy hương và cầy giông cũng rất được ưa chuộng tuy không bằng xạ hương của hươu xạ. Trên thị trường quốc tế người ta gọi là Viverreum hay Civette.

   Chất xạ hương ở Abixini chảy ở 36-37o, gồm phần lớn là chất béo, dễ tan trong ête, benzen, clorofoc, ête dầu hỏa, ít tan hơn trong cồn etylic và metylic, trong axeton không tan trong nước, axit và kiềm.

   Trong xạ hương này có chất scatol bên cạnh một hợp chất có mùi.

   Xạ hương này trước kia thường được nhân dân châu Âu dùng làm thuốc kích thích và trấn kinh. Hiện nay chỉ còn dùng làm hương liệu như xạ hương Moschus.

   Trong nhân dân Việt Nam, người ta dùng loại xạ này như loại xạ hương lấy ở hươu xạ.

IMG

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

focus Dạ minh sa
19/06/2025 12:00 SA

- 夜明砂. Còn gọi là phân con dơi, thiên thử phẩn, biên bức phần. Tên khoa học Excrementum Vespertilii hay Faeces Vespertiliorum. Vì phân con dơi ban đêm trông nhấp nhánh như cát cho nên gọi là dạ minh sa (dạ là đêm, minh là sáng, sa là cát).

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Tầm xuân - 野薔薇 (野蔷薇). Tên khoa học Rosa multiflora Thunb. Thuộc họ Hoa Hồng (Rosaceae).
Tần cửu (Thanh táo) - 駁骨丹 (驳骨丹). Còn gọi là tần cừu, tần qua, tần giao, thanh táo, thuốc trặc, trường sơn cây. Tên khoa học Justicia gendarussa L. (Gendarussa vulgaris Nees.). Thuộc họ Ô rô (Acanthaceae).
Táo rừng Còn gọi là mận rừng, bút mèo, vang trầm. Tên khoa học Rhamnus crenatus Sieb và Zucc. var. cambodianus Tard. Thuộc họ Táo ta (Rhamnaceae).
Táo ta - 酸枣. Còn gọi là toan táo nhân. Tên khoa học Ziyphus jujuba Lamk. (Zizyphus trinervia Roth.). Thuộc họ Táo (Rhamnaceae). Toan táo nhân (Semen Zizyphi) là nhân phơi hay sấy khô của hạt cây táo vẫn cho ta quả.
Tất bạt - 蓽拔 (荜拔). Còn gọi là tiêu lốt, tiêu hoa tím, morech ton sai (Campuchia). Tên khoa học Piper longum Lin. Thuộc họ Hồ tiêu (Piperaceae).
Tật lê - 蒺藜. Còn gọi là bạch tật tê, gai ma vương, thích tật lê, gai sầu, gai trống, gai yết hầu, herbe terrestre, saligot terrestre, herse. Tên khoa học Tribulus terrestris L. (T. lanuginosus L.). Thuộc họ Tật lê (Zygophyllaceac). Bạch tật lê (Fructus Tribuli) là quả chín phơi hay sấy kho của cây tật lê. Vì quả có gai, giẫm phải thường sinh bệnh thối thịt như bị ma quỷ cho nên còn có tên gai ma vương.
Tế tân - 細辛. Tên khoa học Asarum sieboldii Miq. Thuộc họ Mộc thông (Aristolochiaceae). Tế tân (Herba Asari sieboldi) là toàn cây phơi hay sấy khô của cây tế tân. Tế là nhỏ, tân là cay vì vị thuốc có rễ nhỏ, vị cay nên gọi là tế tân. Ngoài cây tế tây nói trên (còn gọi là hoa tế tân) người ta còn dùng một cây khác với tên liêu tế tân (còn gọi là tế sâm) là toàn cây phơi hay sấy khô của cây liêu tế tân - Asarum heterotropoides F. Schum. var. mandshuricum (Maxim.) Kitag. cùng họ.
Tề thái - 薺菜 (荠菜). Còn gọi là tề, tề thái hoa, địa mễ thái. Tên khoa học Capsella bursa pastoris (L.) Medic. Thuộc họ Chữ thập Brassicaceae (Cruciferae). Tề thái (Herba Capsellae) hoặc (Herba Bursae pastoris) là toàn cây tề thái phơi hay sấy khô.
Thạch - 凉粉. Còn gọi là quỳnh chi. Tên khoa học agar, agar-agar. Thạch (agar hay agar-agar) là một chất nhầy phơi khô chế từ một số hồng tảo như nhiều loại rau câu (gracilaria sp.) của ta hoặc từ một loại hồng tảo gọi là thạch hoa thái Gelidium amensii Lamour. thuộc họ Thạch hoa thái (Gelidiaceae) lớp hồng tảo (Rhodophyceae).
Thạch hộc - 石斛. Còn gọi là kim thoa thạch hộc, thiết bì thạch hộc, kim thạch hộc, câu trạng thạch hộc, hắc tiết thảo, hoàng thảo. Tên khoa học Dendrobium sp. Thuộc họ Lan (Orchidaceae). Thạch hộc (Caulis Dendrobii) là thân phơi hay sấy khô của nhiều loài thạch hộc hay hoàng thảo như Dendrobium nobile Lindl., Dendrobium simplicissimum Kranzl., Dendrobium dalhousieanum Wall., Dendrobium gratiosissimum Reichb., Dendrobium crumenatum Sw., v.v... Vị thuốc trên nhỏ dưới to, giống như cái hộc, mọc ở núi đá, do đó có tên (thạch: đá; hộc: cái hộc).
Thạch quyết minh - 石決明. Còn gọi là cửa khổng, cửa khổng loa, ốc khổng, bào ngư. Tên khoa học Haliotis sp. Thuộc họ Haliotidae, lớp Phúc túc (Gastropoda), ngành Nhuyễn thể (Mollusca). Thạch quyết minh (Concha Haliotidis) là vỏ phơi khô của nhiều loài bào ngư Haliotis diversicolor Reeve (cửa khổng bào), Haliotidis gigantea discus Reeve (bào đại não) và Haliotidis ovina Gmelin (dương bào). Tên là thạch quyết minh vì là một vị thuốc giống đá (thạch) lại có tính chất làm tan màng, sáng mắt. Còn cửu khổng hay ốc khổng vì ở mép vỏ của bào ngư có một hàng lỗ nhỏ từ 7 đến 13 lỗ (thường là 9 lỗ), tức là chỗ để không khí ra vào cho con bào ngư thở.
Thạch vĩ - 石韋 (石韦). Còn gọi là thạch bì, thạch lan, phi đao kiếm, kim tinh thảo. Tên khoa học Pyrrhosia lingua (Thunb.) Farwell (Cyclophorus lingua Desv., Polypodium lingua Siv.). Thuộc họ Dương xỉ (Polypodiaceae).
Thần khúc - 神曲. Còn gọi là lục thần khúc, lục đình khúc, kiến thần khúc. Tên khoa học Massa medicata fermentata. Thần khúc là một vị thuốc rất phổ cập để chữa bốn mùa cảm mạo, ăn uống không tiêu v.v... Nhưng thần khúc không phải do một cây thuốc nào cung cấp mà gồm nhiều vị thuốc phối hợp với bột mì hoặc bột gạo tạo nên một môi trường đặc biệt gây mốc rồi phơi khô. Vì lúc đầu thần khúc chỉ gồm có 6 vị thuốc phối hợp với nhau, ủ cho lên mốc vào những ngày 5 tháng 5, ngày 6 tháng 6 hoặc trước ngày 20 tháng 7 (âm lịch), những ngày này theo mê tín cũ là những ngày các thần hội họp với nhau do đó thành tên (lục = sáu, thần = ông thần). Nguồn gốc thần khúc ở tỉnh Phúc Kiến (Trung Quốc) vì vậy còn có tên kiến thần khúc (thần khúc của Phúc Kiến).
Thàn mát - 鬧魚崖豆 (闹鱼崖豆). Còn gọi là mác bát, hột mát, duốc cá, thăn mút. Tên khoa học Milletia ichthyochtona Drake. Thuộc họ Cánh bướm Fabaceae (Papilionaceae). Hạt cây thàn mát được nhân dân miền núi nước ta dùng để duốc cá (làm cho cá say thuốc mà bắt).
Thăng ma - 升麻. Trên thị trường, vị thăng ma do nhiều cây khác nhau cung cấp. Chủ yếu là những cây thuộc họ Mao lương (Ranunculaceae), nhưng vùng Quảng Đông, Quảng Tây giáp nước ta người ta dùng rễ một cây thuộc họ Cúc với tên thăng ma. Những vị thăng ma thường gặp là: (1) Thiên thăng ma - (Rhizoma Cimicifugae heracleifoliae) - là thân rễ khô của cây đại tam diệp thăng ma (Cimicifuga heracleifolia Komar.), thuộc họ Mao lương (Ranunculaceae); (2) Bắc thăng ma - (Rhizoma Cimicifugae dahuricae) - là thân rễ khô của cây bắc thăng ma hay đông bắc thăng ma - (Cimicifuga dahurica Maxim.) thuộc họ Mao lương (Ranunculaceae); (3) Tây thăng ma - Còn gọi là lục thăng ma hay xuyên thăng ma (Rhizoma Cimicifugae foetidae) - là thân rễ khô của cây thăng ma (Cimicifuga foetida L.) thuộc họ Mao lương (Ranunculaceae); (4) Quảng đông thăng ma (Radix Serratulae) - là rễ khô của thăng ma (Serratula sinensis S. Moore.) thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae).
Thanh cao - 青蒿. Còn gọi là thảo cao, hương cao, thanh hao. Tên khoa học Artemisia apiacea Hance. Thuộc họ Cúc Artemisia (Compositae). Thanh cao (Herba Artemisiae apiaceae) là toàn bộ phận trên mặt đất cây thanh cao phơi hay sấy khô. Tên thanh hao còn dùng để chỉ một cây nữa (xem chú thích ở dưới) cần chú ý để tránh nhầm lẫn.
Thanh cao hoa vàng - 黄花蒿. Còn gọi là thanh hao, thanh cao, thảo cao. Tên khoa học Artemissia annua L. Thuộc họ Cúc Asteriaceae (Compositae).
Thanh đại - 青黛. Thanh đại (Indigo pulverata levis) là màu xanh chế từ nhiều cây khác nhau, chủ yếu là các cây sau đây: 1. Cây chàm (Indigofera tinctoria L.) thuộc họ Cánh bướm (Fabaceae); Nghể chàm (Polygonum tinctorium Lour) thuộc họ Rau răm (Polygonaceae); Cây chàm Strobilanthes cusia Bremek (hay strobilanthes flaccidifolius Ness), còn gọi là cây chàm mèo thuộc họ Ô rô (Acanthaceae); 4. Một số cây khác chưa thấy ở nước ta, như cây Isatis tinctoria L., họ Chữ thập (Brassicaceae) và cây Isatis indigotica Fort, cũng thuộc họ Chữ thập (Brassicaceae).
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]