Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

THỊ - 黃柿

Còn gọi là thị muộn.

Tên khoa học Diospyros decandra Lour.

Thuộc họ Thị (Ebenaceae).

THỊ, 黃柿, thị muộn, Diospyros decandra Lour., họ Thị, Ebenaceae

Thị - Diospyros decandra

A. MÔ TẢ CÂY

Thị là một cây gỗ, cao tới 5-6m.

Lá mọc so le, phiến lá hình trứng thuôn, dài 5-8cm, rộng 2-4cm, dai, cuống dài 6-9mm, có phủ lông.

Hoa đa tính, họp thành xim, màu trắng. Đài hợp ở gốc 4 răng, cả hai mặt đều có lông. Tràng hợp, 4 răng; nhị 8-14. Nhụy có 2 vòi.

Quả tròn hơi dẹp, đường kính 3-5cm, có 6-8 ngăn, khi chín màu vàng, mang đài tồn tại.

Hạt cứng, dẹt, dài 3cm, phôi sừng.

Mùi thơm hay khó chịu tùy theo người thích hay không thích.

B. PHÂN BỐ, THU HÁI VÀ CHẾ BIẾN

Được trồng ở khắp nơi ở Việt Nam, chủ yếu để lấy quả ăn. Quả hái về vào các tháng 8-9. Ngoài ra người ta còn dùng lá tươi hay phơi khô làm thuốc. Không có chế biến gì đặc biệt.

C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Vỏ quả chứa một ít tinh dầu mùi gần giống mùi ête amyl valerianic.

Thịt quả thị: Theo kết quả phân tích của Peirier (1932) có 86,20% nước, 0,16%  chất béo, 0,67% chất protit, 12% gluxit, 0,33% tanin, 0,47% xenluloza, 0,50% tro.

Tanin trong thị thuộc họ loại tanin pyrocatechic, khi bị ôxy hóa thì chất màu đỏ nâu. Peirier cho đó là hoạt chất chính.

Lá chưa có tài liệu nghiên cứu.

D. TÁC DỤNG DƯỢC LÝ

Năm 1932, dựa trên kinh nghiệm nhân dân cho trẻ con ăn quả thị vào sáng sớm lúc đói thì thấy có khi ra giun, Peirier có thí nghiệm xem tác dụng của thịt quả thị phơi khô trên giun đất. Dùng 20g bột thịt quả thị phơi khô tán nhỏ, chiết bằng 200ml nước. Với liều 5ml, giun bị tê liệt hoàn toàn sau 8 giờ, với liều 10ml, giun chết sau 4 giờ, với liều 15ml giun chết sau 1 giờ.

Năm 1961-1962, dựa trên kinh nghiệm của nhân dân dùng lá thị gây trung tiện và căn cứ vào việc lá thị đã dùng trên lâm sàng ở bệnh viện Phú Thọ điều trị có kết quả để gây trung tiện sau khi mổ, Lưu Văn Dung ở Khoa dược lý Trường sĩ quan quân y đã nghiên cứu tác dụng dược lý và độc tính của lá thị, kết quả đầu tiên như sau:

   1. Tác dụng trên ruột bằng phương pháp mổ bụng, bộc lộ ruột để quan sát sự co bóp ruột bằng mắt thường với liều 2-3-5ml nước sắc lá thị 20-100% tiêm vào tĩnh mạch vành tai của thỏ thì thấy ruột tăng co bóp, nhất là ở trực tràng có hiện tượng căng phồng lên, nhu động đều và tống phân ra ngoài.

   Trên ruột thỏ cô lập theo phương pháp Magnus, 5-8-10 giọt nước sắc lá thị 100% nhỏ vào dung dịch Tyrod nuôi đoạn ruột cô lập làm tăng co bóp của ruột non cả về tần số lẫn biên độ. Nếu tiêm 2-3-5ml nước sắc lá thị 100% trên 1kg thể lượng vào tĩnh mạch vành tai của thỏ thì cả tá tràng và trực tràng đều co bóp rất mạnh, so với tác dụng trên ruột non cô lập và tại chỗ thì tác dụng trên trực tràng mạnh hơn cả về tần số lẫn biên độ, tác dụng cũng rõ rệt và lâu dài hơn. So sánh với tác dụng của Syntostigmin thì thấy rất giống.

   2. Tác dụng trên cơ vận của bộ xương: Dùng cơ năng chân ếch cô lập và phương pháp Claude Bernard trên cơ thể toàn vẹn thì đều thấy lá thị đã làm cho cơ phản ứng nhậy hơn đối với các kích thích điện trực tiếp trên cơ và dây thần  kinh hông ếch. Tác dụng này cũng giống tác dụng của prostigmin.

   3. Những tác dụng khác: Liều nhỏ làm tăng biên độ tim, liều cao làm yếu tim, loạn nhịp và đình tim.

   Làm giãn mạch.

   Liều nhỏ ít ảnh hưởng tới huyết áp nhưng liều cao gây hạ huyết áp.

   Hô hấp hơi tăng cả về tần số lẫn biên độ.

   4. Độ độc: Dùng nước sắc 100% và 200% cho khỉ, thỏ, chuột lang, chuột nhắt trắng, ếch uống, tiêm dưới da, tĩnh mạch, túi bạch huyết đều thấy rất ít độc. So sánh liều độc tiêm tĩnh mạch đối với thỏ là 16g trên 1kg thể lượng liều tim tĩnh mạch tác dụng là 2ml dung dịch 20% tức là 0,4g/1kg thì chỉ số điều trị là:

IMG

E. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

1. Năm 1961, Bệnh viện Phú Thọ đã dùng nước sắc lá thị (100g lá thị phơi khô, sắc với nước và lấy đúng 100ml), mỗi ngày cho uống 10-20-30ml, đồng thời lấy bông tẩm nước sắc này đắp vào rốn để chữa bệnh không trung tiện được sau khi mổ. Kết quả rất tốt.

Trong nhân dân, thường dùng lá thị phơi khô cho hút để gây đánh trung tiện; lá tươi giã đắp vào mụn nhọt cho chóng tan.

2. Thịt quả thị ăn nhiều vào lúc đói có thể trị được giun kim (kinh nghiệm nhân dân).

Vỏ quả thị phơi khô đốt thành than được dùng bôi lên các nơi phồng do con giời leo gây ra. Có khi người ta đốt vỏ quả thị thành than, trộn với than của cuống chiếu (chiếu trải giường nằm) và định hương tán nhỏ thổi vào các lỗ rò ở hậu môn.

Chú thích:

   Năm 1953, Nguyễn Bá Tước có nghiên cứu quả maklua hay mạc nưa hay mạc luea (Campuchia) (Diospyros mollis Griff.), mọc ở Lào, Campuchia, Thái Lan, Miến Điện. Nhân dân Campuchia dùng hạt tẩy giun.

   Nguyễn Bá Tước đã chiết được từ quả này một hoạt chất hydro quinonic bằng ête axit. Kết tinh trong cồn 30o thành tinh thể hình kim, độ chảy 250-251o, không tan trong nước, có huỳnh quang, xanh tím rõ mạnh ở tia cực tím. Tính chất paranaphtoquinon, công thức thô là C12H12O2. Tác giả đề nghị gọi là diospyroquinon. Ngoài diospyroqui-non ra, còn tanin (1% tanin catechic), strerol, axit hữu cơ, men (invectin và emunsin), không có oxydaza, peroxydaza, không có ancaloit và flavon. Ngoài tác dụng trên giun còn có tác dụng kháng sinh nhẹ.

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

focus Cây một lá
16/04/2025 09:42 CH

- 毛唇芋蘭 (毛唇芋兰). Còn gọi là chân trâu diệp, thanh thiên quỳ, Slam lài, bâu thoọc, kíp lầu (Quảng Hoa-Cao Bằng). Tên khoa học Nervilis fordii (Hance) Schultze. Thuộc họ Lan (Orchidaceae). Ta dùng lá hay toàn cây phơi hoặc sấy khô của cây một lá hay thanh thiên...

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Cỏ chỉ - 鐵線草 (铁线草). Còn gọi là cỏ gà, cỏ ống. Tên khoa học Cynodon dactylon Pers. Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae). Cỏ chỉ - cỏ ống (Rhizoma cynodoni) là thân rễ phơi hay sấy khô của cây cỏ ống hay cây cỏ chỉ.
Cỏ đuôi lươn - 田葱. Còn có tên là bồn bồn, điền thông. Tên khoa học Philydrum lanuginosum Banks (Garciana cochinchinensis Lour). Thuộc họ Cỏ đuôi lươn (Philydraceae). Tên là cỏ đuôi lươn vì ngọn và cụm hoa giống đuôi con lươn. Tên điền thông được ghi trong Lĩnh nam thái dược lục (sách cổ).
Cổ giải Tên khoa học Milletia sp. Thuộc họ Cánh bướm Fabaceae (Papilionaceae).
Cỏ mần trầu - 牛筋草. Còn gọi là ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cheung kras (Campuchia), mia pak kouay (Lào). Tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cynosurus indica L.). Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).
Cỏ may - 竹節草 (竹节草). Còn gọi là bông cỏ, thảo tử hoa, trúc tiết thảo. Tên khoa học Chysopogon aciculatus (Retz.) Trin. (Andropogon aciculatus Retz. Rhaphis trivialis Lour.). Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).
Cỏ nhọ nồi - 墨旱蓮 (墨旱莲). Còn có tên là cây cỏ mực, hạn liên thảo. Tên khoa học Eclipta alba Hassk. (Eclipta erecta Lamk.). Thuộc họ Cúc Ssteraceae (Composittae). Ta dùng toàn cây nhọ nồi (Herba Ecliptae) tươi hoặc khô.
Cỏ sữa nhỏ lá - 千根草 (小飛揚草). Tên khoa học Euphorbia thymifolia Burm (E. prostrata Grah). Thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae). Ta dùng toàn cây phơi khô của cây cỏ sữa nhỏ lá.
Cỏ thiên thảo - 防風草 (防风草). Còn gọi là cây cứt lợn, kiếm, san nga (luang Prabang). Tên khoa học Anisomeles ovata R. Br. Thuộc họ Hoa môi Lamiaceae (Labiatae).
Cỏ tranh - 白茅根. Còn gọi là bạch mao. Tên khoa học Imperata cylindrica Beauv. Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae). Rễ cỏ tranh hay bạch mao căn (Rhizoma Imperatae) là thân rễ phơi hay sấy khô của cây tranh hay cỏ tranh.
Cỏ trói gà - 錦地羅 (锦地罗). Còn có tên là cỏ tỹ gà, cẩm địa là, bèo đất. Tên khoa học Drosera burmannii Vahl. (Dorseraceae rotundifolia Lour., non L.). Thuộc họ cây Bắt ruồi (Droseraceae).
Cóc mẳn - 石胡荽. Còn gọi là cúc mẳn, cỏ the, thạch hồ tuy, nga bất thực thảo, địa hồ tiêu, cầu tử thảo. Tên khoa học Centipeda minima (L.) A.Br. et. Aschers (Myrigyne minuta Less., Centipeda orbicularis Lour.). Thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae). Tên cóc mẳn còn dùng chỉ một cây khác thuộc họ Cà phê có tên khác là vương thái tô Oldenlandia corymbosa Sind.
Cốc tinh thảo - 谷精草. Còn gọi là cỏ đuôi công, cây cốc tinh, cỏ dùi trống. Tên khoa học Eriocaulon sexangulare L. Thuộc họ Cốc tinh thảo (Eriocaulaceae). Cốc tinh thảo (Scapus Eriocauli) là cán mang hoa phơi hay sấy khô của cây cốc tinh thảo hay cây cỏ đuôi công, hay cây cốc tinh. Ta còn dùng cán mang hoa của một số loài Eriocaulon khác có hình dáng giống nhau. Tên cốc tinh vì người ta thấy sau khi lúa đã gặt rồi thì cây này xuất hiện, do đó cho là cốc tinh của lúa mọc lên.
Cói - 茳芏. Còn gọi là lác. Tên khoa học Cyperus malaccensis Lamk. Thuộc họ Cói (Cyperaceae).
Côn bố - 昆布. Còn gọi là hải đới, nga chưởng thái. Côn bố là toàn cây khô của một loại tảo dẹt (có tên khoa học là Laminaria japonica). Areschong thuộc họ Côn bố (Laminariaceae), người ta cũng còn dùng toàn cây khô của cây nga chưởng thái. Ecklonia kurome Oskam thuộc họ Tảo có cánh (Alariaceae), hoặc của một loại tảo Undaria pinnatifida (Harv.). Suring thuộc cùng họ Tảo có cánh (Alariaceae). "Côn" có nghĩa là cùng, là giống; "bố" là vải, vì vị thuốc này dài như tấm vải cho nên đặt tên như vậy.
Con rết - 蜈蚣. Còn có tên là ngô công, thiên long, bách túc trùng, bách cước. Tên khoa học Scolopendra morsitans L.. Thuộc họ Ngô công (Scolopendridae). Ngô công là toàn con rết Scolopendra monrsitans L. phơi hay sấy khô.
Cốt toái bổ - 骨碎補. Còn gọi là bổ cốt toái, co tạng tó (Thái ở châu Quỳnh Nhai), co in tó (Thái ở Điện Biên), cây tổ phượng, cây tổ rồng, tổ diều, tắc kè đá. Tên khoa học Drynaria fortunei J. Sm. (Polypodium fortunei O. Kuntze). Thuộc họ Dương xỉ (Polypodiaceae). Cốt toái bổ hay bổ cốt toái (Rhizoma Drynariae fortunei) là thân rễ phơi khô của cây bổ cốt toái. Tên bổ cốt toái vì người ta cho rằng vị này có tác dụng làm liền những xương dập gẫy. Tên co tạng tó vì tạng có nghĩa là đặt vào, tó là liền lại vì vị thuốc này đặt vào thì làm liền lại. Chữ in có nghĩa là gân, vì vị thuốc có tác dụng nối liền gân cốt.
Củ cải - 莱菔. Còn có tên là rau lú bú, củ cải, la bặc tử, lai phục tử. Tên khoa học Raphanus sativus L. Thuộc họ Cải (Brassicaceae). La bặc tử (Semen Raphani) là hạt phơi hay sấy khô của cây cải củ (củ cải).
Củ cấu - 菱. Còn gọi là ấu trụi, ấu nước, kỵ thực, lăng thực, (Trung Quốc) macre, krecchap (Cămpuchia). Tên khoa học Trapabicornis L. Thuộc họ Củ ấu (Hydrocaryaceae).
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]