Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

QUẾ THANH HÓA - 清化桂

Còn gọi là nhục quế, quế Thanh, quế Quỳ, cannellier royal, cannellier d'Annam.

Tên khoa học Cinnamomum loureirii Nees (Cinnamomum obtusifolium Nees var. loureirii perrot et Eberh; Láuru cinnamomum Lour.).

Thuộc họ Long não (Lauraceae).

QUẾ THANH HÓA, 清化桂, nhục quế, quế Thanh, quế Quỳ, cannellier royal, cannellier d'Annam., Cinnamomum loureirii Nees, Cinnamomum obtusifolium Nees var. loureirii perrot et Eberh; Láuru cinnamomum Lour., họ Long não, Lauraceae

Cây quế Thanh Hóa - Cinnamomum loureirii

A. MÔ TẢ CÂY

Quế Thanh Hóa là một cây cao từ 12-20cm. Cành mọc trong năm có 4 cạnh, dẹt, nhẵn.

Lá hơi hình trứng hai đầu hẹp lại, hơi nhọn, có 3 gân rất rõ chạy từ cuống đến đầu lá, mặt dưới phủ những vẩy nhỏ. Phiến lá dài 12-15cm, rộng 5cm. Cuống dài chừng 15mm.

Hoa màu trắng mọc thành chùy ở kẽ lá hay đầu cành.

Quả hạch hình trứng dài chừng 1cm, lúc đầu xanh lục, khi chín ngả màu nâu tím, mặt quả bóng, về phía cuống còn sót đế hoa có lông.

Tên khoa học của cây, theo các tác giả Nees (1838), Lecomte (1913), Chevalier (1919) và Merril (1935) thì thống nhất là Cinnamomum loureirii Ness, nhưng theo Perrot và Eberhardt (1909) thì cho là dạng var. loureirii của loài Cinnamomum obtusifolium Nees. Các tác giả này còn cho rằng loài này rất gần loài Cinnamomum cassia Blume.

B. PHÂN BỐ, THU HÁI VÀ CHẾ BIẾN

Loại quế Thanh Hóa này mọc hoang và được trồng ở khắp vùng rừng núi của Việt  Nam, nhưng chủ yếu ở dọc dãy núi Trường Sơn từ bắc Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh tới nam Quảng Nam, Quảng Ngãi. Tại Vân Nam (Trung Quốc) cũng có ít cây thuộc loại  này.

Tuy nhiên trong nhân dân, người ta cho rằng chỉ có loại quế ở Thanh Hóa là tốt, cũng loài cây đó nhưng mọc ở Nghệ An (Quỳ Châu) thì cho là kém hơn, mặc dầu nhiều khi ranh giới giữa Quỳ Châu (Nghệ An) và Thanh Hóa không rõ rệt. Sự thực, giá trị có khác nhau đến như vậy không, chưa được xác minh khoa học.

Tại Thanh Hóa quế quý nhất là vùng Trịnh Vạn thuộc Châu Thường Xuân và Đông Châu (Phú Xuân). Quế Nghệ An nổi tiếng có quế ở Phủ Quỳ, nhưng nhiều vùng ở Phủ Quỳ, tiếp giáp với Thanh Hóa rất khó phân biệt đến nỗi có khi cùng một cây quế mọc hoang trong rừng nhưng người Thanh Hóa tìm ra thì gọi là quế Thanh, người Nghệ An, Hà Tĩnh tìm được lại mang tiếng là quế Quỳ.

Tại hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi, thứ quế được coi là tốt là quế mọc ở trà My thuộc huyện Tiên Phước, Quảng Nam. Ở hai tỉnh này các dân tộc thường hay trồng quế và số quế trồng ở đây rất lớn, diện tích lên tới hàng nghìn hecta.

Muốn trồng quế, có thể gieo hạt, hoặc chiết cành hay đào những cây quế mọc hoang ở rừng về.

Hạt quế lấy vào tháng 7-8 phải chọn ở những cây khỏe, hạt hái về đem ngâm nước để lựa chọn: Hạt nào chìm thì lấy, hạt nổi bỏ đi. Sau đó rửa hạt bằng nước vôi rồi đem trồng ngay. Vì hạt chóng mất khả năng mọc cho nên cần trồng hết sức sớm. Trong vòng 10-15 ngày sau khi hái, hạt phải đem trồng ngay.

Để lâu tỉ lệ mọc kém hoặc mất hẳn. Khi cây cao chừng 30cm (sau một năm) thì đánh trồng ở nơi cố định. Nếu gieo thưa thì không cần đánh đi chỗ khác nữa.

Sau 5 năm có thể bắt đầu thu hoạch, nhưng theo kinh nghiệm, cây quế càng lâu năm (20-30 năm hay lâu hơn) càng tốt.

Phương pháp chiết cành thường tiến hành vào tháng 9-10 nhưng ít dùng vì người ta cho rằng quế trồng bằng chiết cành vỏ thường mỏng, kém giá trị.

Việc bóc vỏ quế tiến hành vào các tháng 4-5 và 9-10. Thời gian này cây quế lắm nhựa, bóc dễ, không sót lòng, quế bóc sót lòng bị coi là kém giá trị. Trước khi bóc người ta làm dàn có bậc cao 4-5m quanh cây quế để trèo lên cho dễ và không làm hỏng vỏ quế. Khi sắp bóc người ta lấy lạt buộc quanh thân và cành to, cách 40-50cm buộc một vòng để làm chỗ cắt cho đều. Sau đó dùng dao thật sắc, mũi nhọn và lấy dùi đục gõ cho đứt vỏ quanh cây và cành, cuối cùng cắt dọc từng đoạn 40cm. Sau khi đã cắt ngang và dọc xong, sẽ lấy đầu que nứa vót nhọn và mỏng lách vào khe cắt, vỏ quế tự tách ra.

Có nơi như ở Quảng Nam, Quảng Ngãi trước hết người ta bóc một khoanh sát gốc cách mặt đất độ 20-30cm, sau đó đợi chừng một tháng mới bóc các đoạn khác.

Quế bóc xong, lại bổ dọc thành từng thanh dài 40-50cm, rộng 5-10cm. Sau khi bóc hết thân cây thì ngả cây để bóc ở các bộ phận khác. Vỏ quế bóc ở những nơi khác nhau của cây không nên để lẫn lộn.

Phần vỏ lấy từ cách mặt đất 0,20-0,40m đến 1,20m gọi là quế hạ căn coi là kém.

Từ 1,20m trở lên đến chỗ cây quế chia cành thứ nhất gọi là quế thượng châu được coi là quế tốt nhất.

Vỏ bóc ở những cành quế to gọi là quế thượng biểu.

Vỏ bóc ở cành nhỏ gọi là quế chi. Tên quế chi còn có khi dùng chỉ các cành quế con, phơi khô.

Một cây quế trung bình cho 30kg quế tốt và 10kg loại vừa.

Tại Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh, quế hái xong phải đem ủ. Nếu ủ không tốt, quế cũng mất giá trị.

Muốn ủ quế, người ta chọn những chiếc sọt to, dán giấy cho kín rồi tìm lá chuối tươi phơi cho ỉu.

Vỏ quế hái về, ngâm nước một ngày, rửa sạch, để khô  nước, hoặc lấy vải lau khô sạch. Lá chuối khô xếp quanh sọt và đáy sọt dày chừng 5cm sau đó xếp quế vào cho đầy. Cuối cùng lại xếp một lớp lá chuối dày 5cm nữa, rồi đậy kỹ và buộc chặt. Cứ mỗi ngày đảo mặt trên xuống dưới, mặt  dưới lên trên, để cho nóng đều. Mùa nóng ủ chừng 3 ngày, mùa lạnh 7 ngày. Nếu trên mặt sọt người ta đặt một hòn đá nặng để nén thì khi hòn đá có hơi nước bốc ở quế lên ướt là được và người ta gọi là "quế ở trong sọt vừa chín".

Dỡ quế ở sọt ra, lại đem ngâm nước 1 giờ nữa, vớt ra, đặt lên các phên nứa, rồi dùng một phên nứa đè lên buộc ép cho thẳng. Để chỗ khô mát, khi nào quế  khô, tai tái, lấy từng thanh quế buộc ép vào ống nứa thẳng và tròn để có dáng thẳng và đẹp. Trong thời gian buộc ép như vậy hằng ngày còn cởi ra hai lần để lau chùi mặt trong cho bóng, rồi lại buộc vào. Cứ làm như vậy hằng ngày cho đến khô là được. Từ khi ủ đến khi được quế thường phải 15-16 ngày (mùa nóng) đến một tháng (mùa lạnh) có khi hai tháng tùy theo cây to nhỏ.

Việc ủ quế là một phương pháp đặc biệt chỉ áp dụng đối với phần quế bóc ở thân và cành to, còn vỏ ở các cành nhỏ chỉ phơi khô trong mát là được.

Quế chế cầu kỳ như vậy còn phải bảo quản nữa mới giữ giá trị lâu: Thường người ta lấy sáp ong miết vào hai đầu của thanh quế, lấy vải mềm quấn lại cất đi, có khi cho vào ống kẽm. Người có nhiều quế, làm một hòm bằng gỗ lót kẽm, hai ngăn, ngăn dưới để chậu mật ong để giữ độ ẩm vừa đủ, ngăn trên có mắt cáo thưa để xếp quế. Có như vậy mới khỏi khô dầu, hương vị mới bảo vệ được.

Khi xem quế, thường người ta cạo một lớp mỏng ở đầu thanh quế rồi nhìn hễ thấy nhiều dầu, nếm có vị cay ngọt hơi chát, khi pha với nước, nước có màu trắng đục (nhiều dầu) thì coi là tốt.

Đối với tây y hoặc thị trường quốc tế, thường chỉ căn cứ theo tỷ lệ tinh dầu mà xác định tốt xấu.

C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Mặc dầu nhân dân ta dùng quế Thanh, quế Quỳ hay quế Trà My với những công  dụng đặc biệt, nhưng sự nghiên cứu thành phần hóa học chưa thấy những thành phần đặc biệt nào, so với các loài quế khác giới thiệu ở sau và được dùng trên thế giới.

Tuy nhiên tỷ lệ các hoạt chất trong quế và trong tinh dầu quế của ta có khác.

Ngoài những chất như tinh bột, chất nhầy, tanin, chất màu, đường, trong quế Việt nam có tới 1-5% tinh dầu (các loài quế khác thường chỉ có 1-2%).

Trong tinh dầu quế Việt Nam có chứa khoảng 95% andehyt xinnamic αD=-0º8 (theo Roure Bertrand). Tinh dầu quế của ta tan trong cùng một thể tích cồn 70º.

Cần chú ý nghiên cứu để có thái độ đúng đối với giá trị quế của ta, một loại quế rất được tín nhiệm trong nhân dân và cả đối với Trung Quốc.

D. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Trong tây y, quế và tinh dầu quế được coi là một vị thuốc có tác dụng kích thích làm cho sự tuần hoàn mau lên (huyết dược lưu thông), hô hấp cũng mạnh lên. Quế còn gây co mạch. Sự bài tiết cũng được tăng lên. Nó còn gây co bóp tử cung và tăng nhu động ruột. Tinh dầu có chất sát trùng mạnh. Cách và liều dùng theo tây y xem các vị quế khác kể ở sau.

Đông y coi quế là một vị thuốc bổ, có nhiều công dụng có khi chữa cả đau mắt, ho hen, bồi bổ cho phụ nữ sau sinh nở, bệnh đau bụng đi tả nguy hiểm đến tính mệnh. Tuy có nhiều người dùng quế, rất tin ở quế, nhưng cũng có một số người do dùng quế mà bị hỏng mắt, cho nên cũng cần thận trọng trong việc dùng quế. Ta cần chú ý theo dõi để dần dần xác định trường hợp nào không dùng được.

Trong đông y ngoài việc dùng quế phối hợp với các vị thuốc khác, còn dùng độc vị quế.

Cách dùng quế như sau: Lấy miếng quế mài với nước mà uống hoặc pha như pha chè: Gọt quế thành những miếng mỏng, cho vào cái chén có nắp, đổ nước sôi vào rồi rót ngay, nước này ta bỏ đi, cho thêm nước sôi lần thứ hai, lần này chờ ngấm, để nguội mới uống. Uống hết lại pha nước sôi. Lần này nên đặt chén quế vào một chén hay bát to hơn đựng nước sôi để quế dễ ngấm hơn. Một lượt vỏ quế có thể pha 2 hay 3 lần nước. Loại tốt có thể được tới 5-6  nước.

Theo tài liệu cổ: Quế có vị cay, ngọt, tính đại nhiệt, hơi có độc; vào 2 kinh Can và Thận. Có tác dụng bổ mệnh môn tướng hỏa, trị cố lãnh trầm hàn, dùng chữa chân tay co quắp, lưng gối tê mỏi, bụng quặn đau, kinh nguyệt bế, tiểu tiện bất lợi, trên nóng dưới lạnh, ung thư. Người âm hư dương thịnh, phụ nữ có thai không dùng được.

Đơn thuốc có quế:

   - Chữa cảm mạo - Quế chi thang (Đơn thuốc của Trương Trọng Cảnh): Quế chi 8g, cam thảo 6g,  thược dược 6g, sinh khương 6g, táo đen 4 quả, nước 600ml. Sắc còn 200ml. Chia 3 lần uống trong ngày (uống nóng), chữa cảm mạo.

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

focus Dừa
10/06/2025 08:11 CH

- 椰子. Còn gọi là giã tử, cocotier. Tên khoa học Cocos nucifera L. Thuộc họ Dừa (Palmae).

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Chìa vôi - 白粉藤. Còn gọi là bạch liễm, đau xương, bạch phấn đằng. Tên khoa học Cissus modeccoides Planch. [Cissus vitiginea Lour. (non L.) C. triloba merr., Callicarpa triloba Lour.]. Thuộc họ Nho (Ampelidaceae).
Chìa vôi - 盒果藤. Còn gọi là bình vôi, bặch phấn đằng, turbith vegetal. Tên khoa học Ipomoea turpethum R. Br., Operculina turpethum (L) Silva Manso. Thuộc họ Bìm bìm (Convolvulaceae).
Chó đẻ răng cưa - 葉下珠 (叶下珠). Còn gọi là diệp hạ châu, diệp hòe thái, lão nha châu, prak phle (Cămpuchia). Tên khoa học Phyllanthus urinaria L. (Phyllanthus cantoniensis Hornem.). Thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae).
Chóc gai - 刺芋. Còn có tên là ráy gai, sơn thục gai, cây cừa, cây móp (Nam Bộ). Tên khoa học Lasia spinosa Thwaites. Thuộc họ Ráy (Araceae).
Chu sa - Thần sa - 朱砂, 辰砂. Còn gọi là châu sa, đơn sa. Tên khoa học Cinnabaris. Chu sa và thần sa cùng là một loại thuốc có thành phần hóa học giống nhau, nhưng loại chu sa nguồn gốc ở tỉnh Hồ Nam Trung Quốc (xưa kia vùng này gọi là châu Thần cho nên có tên thần sa là thứ đá ở châu Thần) được coi là tốt hơn. Sự đánh giá này trên thực tế là đúng và hiện nay ta tìm được cơ sở khoa học của sự đánh giá đó. Chu là đỏ, sa là đá (châu là chữ chu đọc chệch). Vì châu sa là một tảng đá có màu đỏ. Đơn cũng là màu đỏ.
Chùa dù - 四方蒿. Còn gọi là tả hoàng đồ (Lào cai) Dê sua tùa. Tên khoa học Elsholtzia blanda Benth., E. penduliflora W. Smith. Thuộc họ Hoa môi Lamiaceae (Labiatae).
Chua me đất hoa vàng - 酢浆草. Còn gọi là tạc tương thảo, toàn tương thảo, toàn vị thảo, toan vị vị, chua me bá chìa, tam diệp toan. Tên khoa học Oxalis corniculata L. (Oxalis repens Thunb, Oxalis javanica Blume). Thuộc họ Chua me đất (Oxalidaceae).
Chút chít - 酸模, 刺酸模. Còn gọi là trút trít, lưỡi bò, ngưu thiệt, dương đề. Tên khoa học Rumex wallichii Meisn. Rume sinensis (Rumex maritimus Hook). Thuộc họ Rau răm (Polygonaceae). Dương là dê, đề là gót, vì rễ cây giống chân dê do đó có tên. Lưỡi bò hay ngưu thiệt (cũng có nghĩa là lưỡi bò hay lưỡi trâu) vì lá cây giống lưỡi bò. Trẻ con thường cọ 2 lá vào nhau, làm phát ra tiếng kêu "chút chít" do đó thành tên.
Cỏ bạc đầu - 猴子草. Còn gọi là cỏ nút áo, smao kak kdam (Camupuchia). Tên khoa học Kyllinga monocephala Rottb. Thuộc họ Cói (Cyperaceae).
Cỏ bợ - 蘋, 田字草. Còn gọi là tần, tứ diệp thảo, điền tự thảo, phá đồng tiền, dạ hợp thảo, phak vèn (Lào - Vientian). Tên khoa học Marsilea quadrifolia L. (Lemna quadrifolia Desr. Pteris quadrifoliata L.). Thuộc họ Tần (Marsileaceae), bộ Dương xỉ (Hydropterides).
Cô ca - 古柯. Tên khoa học Erythroxylon coca Lamk. Thuộc họ Cô ca (Erythroxylaceae). Tại một số nước châu Mỹ và miền Nam nước ta dưới thời Mỹ ngụy có lưu hành phổ biến một thứ nước uống mang tên côcacôla. Đối với nguyên liệu côla xin xem vị này, còn đối với côca vốn là nguyên liệu chế một chất ma túy tại sao lại đưa được vào thành nước uống? Việc sử dụng lá cô ca làm nguyên liệu chế nước uống giải khát cần chú ý những điểm gì? Bên cạnh vai trò nguyên liệu làm thuốc, dưới đây chúng tôi có đề cập đến những câu hỏi trên đây.
Cỏ chỉ - 鐵線草 (铁线草). Còn gọi là cỏ gà, cỏ ống. Tên khoa học Cynodon dactylon Pers. Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae). Cỏ chỉ - cỏ ống (Rhizoma cynodoni) là thân rễ phơi hay sấy khô của cây cỏ ống hay cây cỏ chỉ.
Cọ dầu - 油棕. Còn gọi là palmier à huile. Tên khoa học Elaeis guineensis Jacq. Thuộc họ Dừa (Palmae).
Cỏ đuôi lươn - 田葱. Còn có tên là bồn bồn, điền thông. Tên khoa học Philydrum lanuginosum Banks (Garciana cochinchinensis Lour). Thuộc họ Cỏ đuôi lươn (Philydraceae). Tên là cỏ đuôi lươn vì ngọn và cụm hoa giống đuôi con lươn. Tên điền thông được ghi trong Lĩnh nam thái dược lục (sách cổ).
Cổ giải Tên khoa học Milletia sp. Thuộc họ Cánh bướm Fabaceae (Papilionaceae).
Cô la - 可樂 (可乐). Tên khoa học Cola sp. Thuộc họ Trôm (Sterculiaceae). Côla (Semen Colae) là hạt chế biến rồi phơi hay sấy khô của nhiều loài cola chủ yếu là loài Cola nitida A. Chev. (Cola vera K. Schum). Thường một số nước quy định hạt côla dùng làm thuốc phải chứa ít nhất 1,5% cafein mà người ta cho rằng nhờ chất này mà hạt côla có tác dụng kích thích thần kinh và bắp thịt.
Cỏ mần trầu - 牛筋草. Còn gọi là ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cheung kras (Campuchia), mia pak kouay (Lào). Tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cynosurus indica L.). Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).
Cỏ may - 竹節草 (竹节草). Còn gọi là bông cỏ, thảo tử hoa, trúc tiết thảo. Tên khoa học Chysopogon aciculatus (Retz.) Trin. (Andropogon aciculatus Retz. Rhaphis trivialis Lour.). Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]