Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

PHÂN NGƯỜI - 人中黄

Còn gọi là cứt người, nhân phẩn, hoàng long thang, hoàn nguyên thủy, phấn thanh, nhân trung hoàng.

Tên khoa học Excrementum Hominis.

Chú thích về tên hoàng là màu vàng, long là con rồng, thanh là thuốc sắc, vì phân người giống hình con rồng, màu vàng nên gọi như vậy cho thanh nhã; nhân là người, trung là trong, hoàng là màu vàng. Gọi phân người là chất màu vàng trong con người cũng là để cho thanh nhã. Hoàn là trở về, nguyên là nguồn gốc, ý nói từ phân bón cho cây lúa người ta ăn vào lại thải ra xem như trở về nguồn gốc.

A. TẠI SAO LẠI GIỚI THIỆU VỊ THUỐC NÀY Ở ĐÂY?

Năm 1965, bác sĩ Phạm Ngọc Thạch thời đó là Bộ trưởng Bộ y tế có giao cho một số cán bộ ở Viện chống lao nghiên cứu dùng phân người làm thuốc.

Trước khi giao đề tài, bác sĩ Phạm Ngọc Thạch có kể câu chuyện sau đây:

   Vào đầu cuộc kháng chiến chống Pháp ở các tỉnh phía Nam (cuối 1945-đầu 1946) một đơn vị ta bị ngộ độc vì ăn phải nấm độc. Các thầy thuốc tây y cũng như đông y ở đơn vị đều bó tay. Khi bác sĩ đến thăm, anh em có hỏi ý kiến, nhưng bác sĩ cũng chịu.

   Trước hoàn cảnh khó khăn ấy, một bà cụ nông dân xin chữa. Trong lúc bế tắc ấy, anh em đồng ý để bà cụ chữa chạy giúp bộ đội. Bà cụ đi ra ngoài một lúc trở về chế thuốc và cậy miệng cho những người bị ngộ độc uống. Tất cả đều được cứu sống trước sự ngạc nhiên của những người thầy thuốc khoa học hiện đại. Nhưng mọi người còn ngạc nhiên hơn nữa khi hỏi bà cụ dùng thuốc gì thì bà cụ cho biết đã dùng cứt người khô đốt cháy, hòa với nước. Chắc chắn nếu biết trước bà cụ sẽ dùng cứt người để chữa cho bộ đội, nhiều người không dám để bà cụ làm. Nhưng trước sự thật hiển nhiên, mọi người ngạc nhiên nhưng vẫn còn bán tín bán nghi.

   Phải đợi 20 năm sau, trước nhu cầu thuốc chống choáng cho bộ đội đánh giặc, bác sĩ Phạm Ngọc Thạch mới nghĩ đến tìm hiểu cơ sở khoa học của kinh nghiệm dùng vị thuốc quá độc đáo này của nhân dân vì bác sĩ nghĩ rằng, ngộ độc nấm là một trường hợp choáng.

Sau khi được nghe bác sĩ kể lại câu chuyện trên, với kinh nghiệm 20 năm tìm hiểu những bí quyết của y học cổ truyền Việt Nam, nhất là những bài thuốc gia truyền như vậy, chúng tôi tìm đọc bộ sách Bản thảo cương mục của Lý Thời Trân viết và in từ thế kỷ 16 vì chúng tôi cho rằng hầu hết những bài thuốc còn lưu lại đến ta đều có ghi chép lại trong những tài liệu cổ.

Bản dịch gồm hơn 2.000 từ với gần 4 trang đánh máy. Đầu tháng 7/1985 chúng tôi còn được thấybản dịch ấy được chép lại trong Sổ nghiên cứu của Viện chống lao. Ở đây chúng tôi chỉ trích dịch giới thiệu một số để gợi ý những ai muốn nghiên cứu thêm.

B. CÔNG DỤNG CHỮA BỆNH CỦA PHẦN NGƯỜI GHI TRONG TÀI LIỆU CỔ

Qua tài liệu dịch nói trên, phân người ít nhất cũng đã được sử dụng chữa một số bệnh hiểm nghèo từ thế thứ 6.

Ngoài dạng phân khô đốt cháy, hòa nước uống còn có mấy dạng độc đáo say đây:

   1. Hoàng long thang còn gọi là phấn thanh hay hoàn nguyên thủy hoặc nhân trung hoàng: Ở gần nơi thành thị, người ta dùng một cái ang bằng sành có nắp, bỏ phân người vào trong, để yên lâu năm sẽ được một thứ nước rất đen và đắng chữa được bệnh dịch và người gần chết.

   2. Nhân trung hoàng (xem thêm ở vị cam thảo).

Phân người chủ trị sốt dữ dội do thời khí sinh ra, phân người còn có tác dụng giải độc, nhiệt độc của bệnh thương hàn, đắp vào nơi đinh thũng trong một ngày chân đinh thường vỡ ra. Còn chữa sốt chưng lao phục (trong xương đau nhức), ung thũng phát bối, sởi đậu không mọc được.

Trong tài liệu có giới thiệu 33 đơn thuốc chữa rất nhiều bệnh hiểm nghèo. Ở đây chúng tôi cũng chỉ xin trích giới thiệu một vài đơn chính:

   a) Chữa ngộ độc sắn, khoai và nấm độc trong núi: Nếu người bị ngộ độc sắp chết cho uống một thang phân là sống (theo sách Trửu hậu phương).

   b) Chữa ngộ độc nem, thịt: Đốt phân thành than uống với rượu (cũng trích ở Trửu hậu phương).

   c) Tâm phúc cấp thống (vùng tim và vùng bụng đau quặn dữ dội): Dùng phân người nghiền đều với mật, uống với nước.

C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC CỦA TRO PHÂN NGƯỜI

Với sự chỉ đạo nghiên cứu của Phạm Ngọc Thạch, năm 1965 khoa sinh hóa của Viện chống lao đã phân tích than phân người thấy toàn bộ gồm những muối kali với tỷ lệ kali clorua 2g, kali cacbonat 0,44g, kali photphat axit 0,62g, kali sunfat 1,85, KOH 0,25 (0,55g).

Từ kết quả nghiên cứu này Viện chống lao cho chế các muối trên thành 100ml thuốc tiêm đóng ống 5ml mang tên NT-9 (nhân trung, pH 9) thí nghiệm cho chó trước khi thử cho người để chữa choáng.

Tiếc rằng sau khi bác sĩ Phạm Ngọc Thạch mất đi không ai tiếp tục công trình nghiên cứu này.

Chúng tôi ghi chép lại vị thuốc này ở đây với ý nghĩ chúng ta cần hết sức thận trọng khi thừa kế hoặc phê phán những kinh nghiệm chữa bệnh dùng thuốc của cha ông.

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

Huyết lình
16/06/2025 08:56 CH

- Còn gọi là lục linh. Lình là tên tiếng Thổ của con khỉ; lục là nhau thai và huyết linh là máu chảy ra của con khỉ sau khi đẻ, phơi khô.

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Mộc hoa trắng - 止瀉木 (止泻木). Còn gọi là cây sừng trâu, cây mức lá to, thừng mực to lá, mức hoa trắng, mộc vài (Thổ), míc lông. Tên khoa học Holarrhena antidysenteria Wall (Echites antidysenterica Roxb, Wrightia antidysenterica Grah.). Thuộc họ Trúc đào (Apocynaceae). Ta dùng hạt và vỏ cây mộc hoa trắng.
Mộc hương - 木香. Trên thị trường có nhiều loại mộc hương, nhưng sau đây là 2 vị chính: (1) Quảng mộc hương còn gọi là vân mộc hương (Radix Saussureae lappae) là rễ phơi hay sấy khô của cây vân mộc hương (Saussurealappa lappa Clarke) thuộc họ Cúc (Compositae). (2) Thổ mộc hương còn gọi là hoàng hoa thái (Radix Helenii) là rễ phơi hay sấy khô của cây thổ mộc hương (Inula helenium L.) cũng thuộc họ Cúc (Composiae). Ngoài ra còn một số cây khác cũng cho vị mộc hương cùng thuộc họ Cúc như vị xuyên mộc hương mà có tác giả xác định là Inula racemosa Hook. f., nhưng có tác giả lại xác định là Jurinea aff. souliel Franch.
Móc mèo núi - 大托葉雲實 (大托叶云实). Còn gọi là vuốt hùm, bonduc, cni- quier, pois - quenique, yeux de chat. Tên khoa học Caealpinia bon du-cella Flem. Thuộc họ Vang (Caesalpinceae).
Mộc nhĩ - 木耳. Còn gọi là nấm tai mèo. Tên khoa học Auricularia polytricha Sacc. Thuộc họ Mộc nhĩ (Auriculariaceae).
Mộc qua - 木瓜. Tên khoa học Chaenomeles lagenaria (Lois.) Koidz (Cydonia lagenaria Lois.). Thuộc họ Hoa hồng (Rosaceae). Mộc qua (Fructus Chaenomelis lagenariae) là quả chín phơi hay sấy khô của cây mộc qua (Chaenomeles lagenaria).
Mộc tặc - 木贼. Còn gọi là tiết cốt thảo, mộc tặc thảo, bút đầu thái, cỏ tháp bút. Tên khoa học Equisetum arvense L. Thuộc họ Mộc tặc (Equisetaceae). Mộc tặc (Herba Equiseti arvensis) là toàn cây mộc tặc phơi khô. Vì cây có đốt lại ráp, dùng để đánh gỗ cho nhẵn, do đó có tên là mộc tặc ("mộc" là gỗ, "tặc" là giặc, giặc đối với gỗ).
Mộc thông - 木通. Mộc thông là một vị thuốc ta vừa nhập của Trung Quốc, vừa khai thác trong nước. Nhưng ngay mộc thông của Trung Quốc cũng không thống nhất. Người ta đã thống kế, phát hiện thấy hơn 10 loại cây khác nhau, thuộc các họ thực vật khác nhau, chủ yếu thuộc 2 họ: Mộc hương (Aristolochiaceae), Mao lương (Rauunculaceae) cho vị thuốc mang tên mộc thông. Tại Việt Nam, cũng có mấy cây khai thác với tên mộc thông. Khi sử dụng cần chú ý theo dõi. Ở đây chúng tôi chỉ giới thiệu một số cây thường được dùng nhất. Vị mộc thông, nguyên gọi là thông thảo, vì có lỗ nhỏ ở hai đầu nên gọi tên như vậy ("mộc" là gỗ, "thông" là thông qua).
Móng lưng rồng - 九死還魂草 (九死还魂草). Còn gọi là chân vịt, quyển bá, vạn niên tùng, kiến thủy hoàn dương, hồi sinh thảo, trường sinh thảo, cải tử hoàn hồn thảo, hoàn dương thảo, nhả mung ngựa (Thái), thạch bá chi. Tên khoa học Selaginella tamariscina (Beauv.) Spring. Thuộc họ Quyển bá (Selaginellaceae).
Mù mắt - 馬醉草 (马醉草). Tên khoa học Isotoma longiflora Prest., Lobelia longiflora Willd., Laurentia longiflora (L.) Peterm. Thuộc họ Lobêli (Lobeliaceae).
Mù u - 海棠油. Còn gọi là đồng hồ, khung tung, khchyong (Cămpuchia). Tên khoa học Calophyllum mophyllum L. (Balsamaria inophyllum Lour.). Thuộc họ Măng cụt (Guttiferae).
Mùi tây - 歐芹 (欧芹). Còn gọi là rau pecsin, persil. Tên khoa học Petroselinum sativum Hoff. (Carum petroselinum Benth. et Hoof. f). Thuộc họ Hoa tán (Umbelliferae).
Muống biển - 馬鞍藤 (马鞍藤). Tên khoa học Ipomoea biloba Forsk, (Ipomoea maritima R. Br., Convolvulus pescaproe L. Batatas maritima Bojer.). Thuộc họ Bìm bìm (Convolvulaceae).
Muồng trâu - 翅荚决明, 对叶豆. Còn gọi là trong bhang, ana drao bhao (Buôm mê thuột), dâng het, tâng hét, dang hét khmoch (Campuchia) khi lek ban (Lào). Tên khoa học Cassia alata L., (Cassia bracteata L., Cassia herpetica Jacq.). Thuộc họ Vang (Caesalpiniaceae).
Muồng truổng - 簕欓花椒. Còn gọi là màn tàn, sen lai, tần tiêu, buồn chuồn, mú tương, cam. Tên khoa học Zanthoxylum avicennae (Lamk.) DC (Fagara avicennae Lamk., Zanthoxylum herculis Lour.). Thuộc họ Cam quít (Rutaceae).
Mướp - 山鐵樹 (山铁树). Còn gọi là mướp hương, ty qua, thiên ty qua, bố ty, ty lạc. Tên khoa học Luffa cylindrica (L. ) Roem, (Momordica cylindrica L.). Thuộc họ Bầu bí (Cucurbitaceae).
Mướp đắng - 苦瓜. Còn gọi là khổ qua, cẩm lệ chi, lại bồ đào, hồng cô nương, lương qua, mướp mủ, chua hao (Mường-Thanh Hóa). Tên khoa học Momordica charantia L. (Momordica balsamina Desc., Cucumis africanus Lindl.). Thuộc họ Bầu bí (Cucurbitaceae).
Mướp tây - 咖啡黃葵. Còn gọi là bông vàng, bắp chà, thảo cà phê (T.Q.). Tên khoa học Hibiscus esculentus L. (Albelmoschus esculentus Wight et Arn.). Thuộc họ Bông (Malvaceae).
Na - 番荔枝. Còn gọi là sa lê, mãng cầu, mãng cầu giai, mãng cầu ta, phan lệ chi. Tên khoa học Annona squamosa L. Thuộc họ Na (Annonaceae).Cây na cho ta các bộ phận sau đây dùng làm thuốc: Lá, hạt và quả.
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]