Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

NHỰA CÓC - 蟾酥

Còn gọi là thiềm tô.

Tên khoa học Secretio Bufonis.

NHỰA CÓC, 蟾酥, thiềm tô, Secretio Bufonis

Con cóc và vị thiềm tô - Secretio Bufonis

Thiềm tô (Secretio Bufonis) là nhựa tiết ở tuyến sau tai và tuyến trên da của con cóc (Bulo bufo thuộc họ Cóc - Bufonidae và những con cùng chi) chế biến mà thành. Loài cóc phổ biến ở nước ta là Bufo melanostictus.

Ngoài nhựa có (thiềm tô) con cóc còn cho ta thịt cóc dùng làm thuốc chữa bệnh cam còm của trẻ con.

Vị thuốc có độc. Nhựa cóc thuộc loại thuốc độc bảng A. Cần chú ý, dùng phải cẩn thận.

A. CHẾ BIẾN THIỀM TÔ

Có nhiều cách bắt cóc. Tùy theo từng nơi có khác nhau. Có thể đợi đến tối, thắp một cái đèn để ở giữa cánh đồng, cóc thấy sáng nhảy tới mà bắt lấy. Bắt được cho vào dọ tre, dội nước cho thật sạch đất cát, chờ cho da hơi khô, thì bắt từng con, lấy tay trái giữ chân, tay phải dùng nhíp đè lên lưng cóc, vào những chỗ có tuyến tiết, chủ yếu ở 2 tuyến trên mắt. Hứng lấy nhụy đựng vào đĩa bằng sành hay sứ hoặc thủy tinh, tránh dùng đồ sắt, nhựa sẽ bị đen. Sau khi lấy nhựa  xong có thể lại thả cóc ra, hoặc nếu định lấy thịt thì sẽ đem mổ (xem ở dưới).

Sau khi lấy được nhựa cóc phơi khô trên kính hay cho vào khuôn. Khoảng 1 Vạn con cóc cho 1kg nhựa cóc khô (Đồ Tất Lợi - Đào Kim Long, Dược học 1973, 5: 15-19).

Khi lấy nhựa cóc cần chú ý kẻo nhựa cóc bắn vào mắt. Nếu bị nhựa cóc bắn vào mắt thì lập tức dùng nước ép của cây tử thảo mà rửa thì khỏi sưng.

Ta có thể kích thích vào những hạch tiết ở gần mắt của cóc. Hoặc cho cóc vào cái hộp hay bình thủy tinh, đậy nắp có lỗ, qua lỗ luồn vào một que tre mà kích thích con cóc cho chảy nhựa.

Nhựa tiết ra đem phơi như trên: Có nơi lại trộn nhựa với bột nặn thành bánh tròn nhỏ, dẹt, đường kính 2,5-6cm. Do cách chế biến khác nhau hình dáng và chất lượng có thể khác nhai.

Ở Việt Nam, việc thu hoạch nhựa cóc chưa được chú trọng. Thường vẫn phải nhập. Lẻ tẻ có người lấy một ít để dùng riêng.

B. CHẾ THỊT CÓC VÀ CÓC KHÔ

Ngoài hình thức dùng nhựa cóc nói trên, trong nhân dân còn dùng thịt cóc để chế thuốc cam chữa bệnh cho trẻ con như sau:

   Chọn những con cóc to, cóc đen hay da vàng đều dùng được. Trong nhân dân hiện nay chỉ tránh dùng loại cóc mắt đỏ. Dùng dao, thật sắc chặt đầu ở phía dưới 2 u to trên đầu mà bỏ đi. Khía dọc xương sống và lột hết da, moi bỏ hết ruột gan, phổi và nhất là trứng cóc. Trong khi chế biến cần tránh không để cho mủ (nhựa) cóc dính vào thịt: Muốn vậy, sau khi thịt cóc xong cần rửa cho thật sạch, khỏa mạnh vào nước, cho vào chảo gang rang cho khô dòn (hoặc có thể sấy cho khô dòn) mà tán thành bột. Khi để lâu cần để hết sức khô ráo, tránh ẩm dễ thối hỏng. Có nơi để nguyên cả con, cả xương phơi khô.

Tại Trung Quốc  người ta cũng dùng hình thức này gọi là cóc khô: Can thiền - Bufo Siccus, cũng mổ, bỏ ruột, bỏ gan trứng rồi phơi hay sấy khô. Cần chú ý bỏ hết gan ruột và toàn bộ trứng cũng như da vì có độc, ở ta đã xảy ra nhiều vụ ngộ độc rất thương tâm do chế không đúng phương pháp.

Còn có nơi bắt được cóc, buộc chân cho không nhảy được, bọc đất cho kín, rồi đem nung cho đến khi cục đất đỏ như cục than hồng, lấy ra đập bỏ đất lấy than con cóc mà dùng làm thuốc. Cũng có khi người ta để nguyên cả con cóc sống kẹp giữa hai hòn gạch, đem nung đỏ, lấy cóc mà dùng.

Dù sao, dùng nhựa cóc hay thịt cóc cần hết sức chú ý đến liều lượng không được dùng quá.

C. THÀNH PHẦN HÓC HỌC

a) Trong nhựa cóc có những chất tác dụng không mạnh như cholesterol, axit ascocbic, các chất phá huyết, còn có những chất rất độc như: Bufogin, bufotalin, bufotoxin, bufotenin, bufotenidin, bufotionin, và nhiều hoạt chất khác chưa biết rõ.

IMG

Bufotoxin Các hợp chất này có thể chia làm 3 loại:

   1. Hợp chất không có nitơ giống như chất scilaridin hay như những genin và glucoxit chữa tim có trong lá dương địa hoàng Digitalis.

   2. Hợp chất dẫn xuất của nhóm sterroit.

   3. Hợp chất chứa nitơ dẫn xuất của hydroxyindol và tryptamin.

Chất căn bản trong các hợp chất đó có thể là chất bufotoxin C40H62O11N4 hay viết cho đúng hơn C40H60O10N4OH2. Bufotoxin là một chất có tinh thể, không tan trong nước, trong ête, axeton, ít tan trong rượu, tan trong pyridin, rượu metylic. Độ chảy: 204-205º. Đun sôi với HCl đặc, nó sẽ cho acginin, axit suberic và một chất mới gọi là bufotalin.

IMG

Bufotalin hay bufotalol không phải là một glucozit vì khi thủy phân không cho phần đường. Công thức của nó là C26H36O6. Đây là một chất có tinh thể, ít tan trong nước và trong ête, tan trong rượu và clorofoc. Độ chảy 148º. Có tác dụng giống như một chất glucozit chữa tim. Bufotalin là một hợp chất thuộc nhóm steroit, có nhân căn bản là nhân metyl-cyclo-penteno-phenanthren. Khi phân tích, nó cho một đồng phân của axit desoxycholic, do đó có liên quan tới axit mật.

Bufogin hình như là estemetylic của bufotalin.

IMG

Chất bufotenin C12H16ON2 là một chất kiềm, tính chất như dầu, ít tan trong nước, tan trong rượu, ête, axeton, cho với axit các muối có tinh  thể. Độ chảy 147º.

Nó là dẫn xuất của nhân indol và có công thức 5 hydroxy - N metyl tryptamin.

Chất bufotenidin có kiến trúc căn bản như bufotenin.

Chất bufothiodin C12H14O4N2 khi thủy phân sẽ cho axit sunfuric.

b) Trong thịt cóc, theo sự nghiên cứu của Viện vệ sinh Hà Nội, tháng 3-1962, thì có 53,37% protit, 12,66% lipit, rất ít gluxit, 23,56% tro và 4,18% độ ẩm.

Trong protit có rất nhiều axit amin có giá trị (Viện vệ sinh Hà Nội, tháng 7-1961) chủ yếu là asparagin, histidin, axit glutamic, glycocol, threonin, axit aminobutyric, tyrosin, methionin, leuxin, isoleuxin, phenylanin, tryprophan, xystein.

Như vậy giá trị dinh dưỡng của thịt  cóc rất cao.

Năm 1975 Trần Tích và cộng sự (Y học Việt Nam 1. 1975: 1-8) đã phân tích trong thịt cóc có hàm lượng mangan và kẽm khá cao hơn so với  một số thịt khác như ếch, gà, bò và lợn:

            Kẽm             Mangan
          (mg %)           (mg %)

Cóc      2,45                2,89

Ếch      0,30                0,40

Gà        1,80                0,10

Bò        1,40                0,25

Lợn      0,60                   -

D. TÁC DỤNG DƯỢC LÝ

Nhựa cóc có một số tác dụng như sau:

Tác dụng gây tê cục bộ. Khi đắp nhựa cóc lên da hay niêm mạc thì lúc đầu thấy có hiện tượng kích thích, sau thấy tê cục bộ. Người ta chưa rõ tác dụng đó do chất gì trong nhựa cóc.

Tác dụng trên tim gần giống chất glucozit chữa tim trong dương địa hoàng (Digitalis). Năm 1933, Trần Khắc Khôi và cộng tác đã tiến hành nghiên cứu tác dụng của nhựa cóc lên tim động vật, kết quả chủ yếu như  sau:

   1. Khi tiêm dung dịch loãng nhựa cóc vào màng bụng của ếch thì thấy tim đập chậm lạ, dần dần ngừng ở thể tâm thu.

   2. Tiêm dung dịch nhựa có vào tĩnh mạch chó và mèo gây mê thì thấy tim đập chậm lại, không theo quy luật gì cả, đồng thời huyết áp tăng cao; nếu tiêm liều cao thì tim ngừng đập mà chết.

   3. Nếu nhìn điện tâm đồ của mèo gây mê bằng ête rồi tiêm dung dịch  nhựa cóc thì thấy P-R dài ra, tim đập chậm lại. Nếu như trước khi tiêm nhựa cóc đem cắt hai bên dây vagus (thần kinh phế vị) hoặc tiêm atropin, thì không thấy ảnh hưởng. Trần Khắc Khôi cho rằng độc tính của nhựa cóc là do tác dụng trên thần kinh vagus hoặc trực tiếp trên cơ tim.

   4. Khi uống nhựa cóc, có thể có tác dụng kích thích trên niêm mạc dạ dày và gây nôn như khi dùng dương địa hoàng (Digitalis).

Lấy riêng từng chất trong nhựa cóc thì:

   Các hợp chất sterolic có tác dụng chủ yếu đối với tim.

   Các hợp chất có nitơ, có tác dụng chủ yếu trên cơ trơn ở ruột và trung tâm thần kinh.

Bufotalin tác dụng vận mạch ở thân như digitalin, làm chậm hô hấp và tăng biên độ. Đối với người, nó làm tăng áp lực tim bóp mà không giảm áp suất tâm dãn (diastolic) do đó biên độ tim tăng lên.

Bufotenin sẽ gây tăng huyết áp với hiện tượng kéo dài co mạch ở thận. Bufotenidin có tác dụng tăng huyết áp mạnh.

Do đó chúng ta thấy tác dụng của nhựa cóc rất phức tạp.

E. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Hiện nay tây y không dùng cóc và nhựa cóc chữa bệnh.

Trái lại đông y rất hay dùng cóc trong một số bệnh hiểm nghèo. Nhựa cóc là một trong số 6 vị trong đơn thuốc lục thần hoàn. Trong nhân dân dùng cóc, nhựa cóc chữa các bệnh chó dại, trẻ em kém ăn gầy còm, chậm lớn, phát mụn nhọt, cam răng.

Theo tài liệu cổ: Nhựa cóc có vị ngọt, cay, tính ôn, có độc; vào kinh Vị. Có tác dụng giải độc, tán thũng, giảm đau. Dùng ngoài và uống trong đều được. Dùng chữa phát bối, đinh độc, yết hầu sưng đau, đau  răng.

Liều dùng: Nhựa cóc dùng với liều rất thấp, cần chú ý có thể ngộ độc chết người; không phải thầy thuốc quen dùng không nên tự động.

Ngày uống 1mg đếnn 10 hay 20mg dưới dạng bột hay viên.

Thịt cóc khô dùng với liều 2-3g tán bột uống hay làm thành thuốc viên.

Đơn thuốc có thịt cóc và nhựa cóc dùng trong nhân dân:

   1. Lục thần hoàn - chữa sốt nặng trúng độc, mê man tim suy nhược: Xạ hương 1g, thiềm tô (nhựa cóc) 1g, tây ngưu hoàng 1,50g, sinh hùng hoàng 1g, châu phấn (trân châu) 1,50g, băng phiến 1g, thiềm tô để  riêng, các vị khác đem tán nhỏ, thêm thiềm tô tẩm rượu vào, làm thành viên to bằng hạt cải (bằng đầu đinh ghim); dùng muội bếp (bách thảo sương) làm áo thuốc viên. Mỗi lần uống 5-10 viên, ngày uống 1-2 lần.

   2. Bài thuốc cam cóc chữa suy dinh dưỡng (do gia đình cụ Nguyễn Trọng Tấn cống hiến cho Viện nghiên cứu đông y và đã được hợp tác xã Vinh Ngãi sản xuất): Bột cóc 10 phần, bột chuối 14 phần, lòng đỏ trứng 2 phần.

   Cách làm như sau: Bột cóc chế như phần trên đã nói, trứng gà đập bỏ lòng trắng, lấy lòng đỏ hấp chín, sấy khô, tán thành bột. Chuối bỏ vỏ, bổ dọc sấy cho vừa dẻo nhuyễn. Cả ba thứ trộn đều làm thành viên, mỗi viên 4g.

   Ngày uống 2 lần, mỗi lần 2 viên. Chữa trẻ con bị suy dinh dưỡng, gầy còm, biếng ăn, ỉa chảy.

   Dùng luôn trong 2-3 tháng.

   3. Bài thuốc khác chữa cam tích trẻ em (bụng to, người vàng, gầy): Bắt cóc, bỏ lột da, bỏ cả đầu mình, ruột, gan và trứng. Chỉ lấy hai cái đùi, phết dầu vừng hay mỡ nướng ăn. Ăn luôn trong 5-6 ngày, mỗi  ngày một lần.

   4. Bài thuốc chữa cam tẩu mã: Con cóc lấy đất bọc kín, đốt thành than. Cân lấy 12g, hoàng liên 10g, thanh đại 4g, xã hương 0,8g. Tất cả tán nhỏ, xỉa vào chỗ răng và lợi bị cam đã rửa sạch bằng nước muối.

Chú thích:

   Là vị thuốc có độc, nên khi chế biến phải sạch và làm theo đúng sự hướng dẫn của thầy thuốc.

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

focus Cây xa kê
12/06/2025 08:56 CH

- 麵包樹 (面包树). Còn gọi là cây bánh mỳ, arbre à painvrai. Tên khoa học Artocarpus incisa L. Thuộc họ Dâu tằm (Moraceae).

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
A giao - Minh giao - 阿膠(阿胶), 明膠(明胶). Tên khoa học Colla Asini, Gelatinum Asini, Gelatina nigra. A giao là keo chế từ da lừa cạo bỏ lông, nấu thành cao. Con lừa có tên khoa học Equus asinus L. thuộc ngành có xương sống (Vertebrata), lớp có vú (Mammalia), bộ guốc lẻ (Perissodaetyla), họ Ngựa (Equidae). A là tên huyện Đông A thuộc tính Sơn đông Trung Quốc, giao là keo. Tại huyện Đông A có cái giếng, dùng nước giếng này nấu da lừa sắc đặc thành cao do đó có tên A giao.
Âu ô đầu 歐烏頭 (欧乌头). Còn gọi là Aconnit napel. Tên khoa học Aconitum napellus L. Thuộc họ Mao lương (Ranunculaceae). Âu ô đầu là rễ củ phụ (còn gọi là củ con) của cây Âu ô đầu phơi hay sấy khô. Có khi người ta dùng cả củ mẹ.
Ba chạc - 三桠苦. Còn gọi là dầu dấu, bí bái, mạt, kom la van tio tăng (Viêm tian), swai anor (Cămpuchia). Tên khoa học Evodia lepta (Spreng) Merr. (Evodia triphylla Guill, non DC.). Thuộc họ Cam quít (Rutaceae).
Ba chẽ - 假木豆. Còn gọi là ba chẽ, niễng đực. Tên khoa học Desmodium cephalotes Wall. Thuộc họ Cánh bướm Fabaceae (Papilionaceae).
Ba đậu - 巴豆. Còn gọi là mắc vát, cóng khói, bã đậu, giang tử, mãnh tử nhân, lão dương tử, ba nhân, mần để, cây để, cây đết, phổn (Hòa Bình). Tên khoa học Croton tiglium L. Thuộc học Thầu dầu (Euphorbiaceae). Cây ba đậu cho ta các vị thuốc sau đây: (1) Hạt ba đậu (Semen Tiglii) là hạt ba đậu phơi khô; (2) Dầu ba đậu (Oleum Tiglii) là dầu ép từ hạt ba đậu; (3) Ba đậu sương là hạt ba đậu sau khi đã ép hết dầu đi rồi. Vì vị thuốc giống hạt đậu, lại sản xuất ở Ba Thục (vùng Tứ Xuyên, Trung Quốc hiện nay) do đó có tên này.
Ba đậu tây - 響盒子 (响盒子). Còn gọi là điệp tây, cây vông đồng, sablier. Tên khoa học Hura crepitans L. Thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae).
Bấc đèn - 燈心草 (灯心草). Còn có tên là đăng tâm thảo. Tên khoa học Juncus effusus L. var. decipiens Buch. Thuộc họ Bấc (Juncaceae). Đăng tâm thảo (Medulla Junci caulis) là ruột phơi khô của thân cây bấc đèn.
Bạc hà - 薄荷. Tên khoa học Mentha arvensis L. Thuộc họ Hoa môi (Labiatae). Bạc hà là một vị thuốc rất phổ thông ở nước ta. Nó được dùng trong cả đông y và tây y. Cây bạc hà cho những vị thuốc chủ yếu sau đây: (1) Bạc hà (Mentha hay Herba Menthae) là toàn bộ phận trên mặt đất, tươi hay phơi hoặc sấy khô của cây bạc hà; (2) Bạc hà diệp (Folium Menthae) là lá bạc hà tươi hay phơi hoặc sấy khô; (3) Tinh dầu bạc hà (Oleum Menthae) là dầu cất từ cây bạc hà; (4) Mentol hay bạc hà não (Mentol-Mentol) là chất đặc, trắng chiết từ tinh dầu bạc hà ra. Về mặt thực vật cần phân biệt nhiều loài bạc hà hiện có ở nước ta. Loài chủ yếu thường gặp là loài Mentha arvensis L. mọc hoang rất nhiều ở nước ta, nhưng qua mấy năm điều tra, chúng tôi chưa thấy lại. Tuy nhiên trong thời gian từ năm 1955 đến nay, chúng tôi đã di thực được loài Mentha piperita L. này bằng hạt nhận được ở Pháp (1956) và dây giống bạc hà của Liên Xô (1958) hiện nay đã phổ biến đi nhiều nơi và của Đức (1962) ở nước ta.
Bạc thau - 白鹤藤. Còn gọi là bạch hạc đằng, bạc sau, thau bạc, mô bạc, bạch hoa đằng, lú lớn (Hải Hưng). Tên khoa học Argyreia acuta Lour. Thuộc họ Bìm bìm (Convolvulaceae).
Bách bệnh - 東革阿里. Còn gọi là bá bệnh, hậu phác, tho nan (Lào), antongsar, antoung sar (Campuchia). Tên khoa học Eurycoma longifolia Jack. (Crassula pinnata Lour.). Thuộc họ Thanh thất (Simarubaceae).
Bạch biển đậu - 白扁豆. Còn gọi là đậu ván trắng, đậu bạch biển, biển đậu, bạch đậu. Tên khoa học Dolichos Lablab L. Lablab vulgaris Sav. L., Dolichos albus Lour. Thuộc họ Cánh bướm Fabaceae (Papilionaceae). Bạch biển đậu (Semen Dolichoris) là hạt của cây đậu ván trắng đã chín và phơi khô. Còn có tên nga mi đậu, bạch mai đậu.
Bạch cập - 白芨. Tên khoa học Bletilla striata (Thunb.) Reichb. Thuộc họ Lan (Orchidaceae). Bạch cập (Rhizoma Bletillae) là thân rễ phơi hay sấy khô của cây bạch cập. Vị thuốc sắc trắng (bạch là trắng) lại mọc liên tiếp do đó có tên bạch cập.
Bạch chỉ - 白芷. Tên khoa học Angelica dahurca Benth. et Hook. và Angelica anomala Lallem. Thuộc họ Hoa tán Apiaceae (Umbelliferae). Bạch chỉ (Radix Angelicae) là rễ phơi hay sấy khô của cây bạch chỉ (Angelica dahurica Benth. et Hook) hoặc của cây xuyên bạch chỉ (Angelica anomala Lallem).
Bạch cương tàm - 白僵蠶 (白僵蚕). Còn gọi là cương tàm, cương trùng, thiên trùng. Tên khoa học Bombyx cum Botryte, Bombyx botryticatus. Bạch cương tàm là con tằm Bombyx mori L. thuộc họ Tằm (Bombycidae) bị một bệnh do khuẩn Botrytis bassiana Bals hoặc Beauveria bassiana (Bals) Vuill làm chết cứng, sắc trắng như vôi.
Bạch đàn và tinh dầu bạch đàn - 藍桉 (蓝桉). Còn gọi là cây khuynh diệp. Tên khoa học Eucalyptus globulus Labill. Thuộc họ Sim (Myrtaceae). Tên bạch đàn là tên có từ lâu ở vùng Nghệ An, Hà Tĩnh tên khuynh diệp là do mùi tinh dầu có mùi tinh dầu tràm; cây cũng có lá nghiêng cho nên đặt tên. Hiện nay, tên bạch đàn phổ biến hơn. Tuy nhiên cần chú ý tên bạch đàn trước đây thường dành cho một cây khác có mùi thơm như trầm có tên là đàn hương, tên khoa học là Santalum album L. thuộc họ Đàn hương (Santalaceae), cây này chưa thấy có ở Việt Nam, trước đây ta vẫn dùng tinh dầu chữa bệnh lậu. Eucalyptus globulus do chữ Hy Lạp eu là tốt, kalyptos là cái bao, vì nụ hoa có bao hình tròn; globulus là hình cầu vì quả có hình cầu.
Bạch đồng nữ - 臭茉莉. Còn gọi là bần trắng, vậy trắng, mấn trắng, mò trắng. Tên khoa học Clerodendron fragrans Vent. Thuộc họ Cỏ roi ngựa (Verbennaceae). Ta dùng lá và rễ phơi khô hay sấy khô của cây bạch đồng nữ - Folium Clerodendri và Radix Clerodendri. Bạch đồng nữ là tên dùng để chỉ ít nhất 3 cây khác nhau, cần chú ý phân biệt (xem phần chú thích).
Bạch hạc - 白鶴靈芝 (白鹤灵芝). Còn gọi là cây lác, thuốc lá nhỏ lá, cây kiên cỏ, nam uy linh tiên. Tên khoa học Rhinacanthus nasuta (L.) Kurz (Justicia nasuta L., Rhinacanthus communis Nees, Dianthera paniculata Lour.). Thuộc họ Ô rô (Acanthaceae).
Bạch hoa xà - 白花丹. Còn gọi là bạch tuyết hoa, cây chiến (Bắc Lệ, Lạng Sơn), cây đuôi công, pit phì khao (Luang Prabang), xitraca (Ấn Độ). Tên khoa học Plumbago zeylanica L., (Thela alba Lour.). Thuộc họ Đuôi công (Plumbaginaceae).
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]