Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

NHAU SẢN PHỤ - 紫河車 (紫河车)

Còn gọi là thai bàn, thai y, thai bào, nhân bào, tử hà sa.

Tên khoa học Placenta Hominis.

NHAU SẢN PHỤ, 紫河車, 紫河车, thai bàn, thai y, thai bào, nhân bào, tử hà sa, Placenta Hominis

Nhau thai và thai - Placenta Hominis

Nhau sản phụ là bộ phận ở trong tử cung của người mẹ cùng với cái thai. Khi thai còn ở bụng mẹ thì nhau sản phụ có nhiệm vụ che chở và nuôi dưỡng thai.

A. NGUỒN GỐC NHAU SẢN PHỤ

Nhau sản phụ nói ở đây là nhau của người (Homo sapiens) thuộc ngành có xương sống (Vertebrata), lớp có vú Mammalita, họ người (Hominidae).

Phụ nữ đến tuổi đều có kinh nguyệt, hàng tháng hai buồng trứng sản xuất ra trứng. Trứng gặp tinh trùng sẽ thụ tinh và qua vòi dẫn trứng xuống đậu ở tử cung. Trứng phát triển thành thai. Nhưng vì trứng không có chất dùng để dự trữ nuôi dưỡng cái thai như trong trứng gà trứng vịt cho nên từ thành của tử cung sẽ tạo ra một bộ phận có nhiệm vụ nuôi dưỡng, hô hấp, bài tiết và cung cấp nội tiết tố cho cái thai tức là nhau sản phụ.

Khi sinh nở, tử cung co bóp cổ tử cung mở rộng, trước hết tống thai ra ngoài, người ta cắt rốn cho thai, được ít lâu sau tử cung co bóp lần nữa, tống nhau sản phụ ra.

Ngoài nhau của người, ta có thể dùng nhau của bò lợn, cừu dê hay những gia súc khác.

B. CHẾ BIẾN NHAU SẢN PHỤ

Cần chọn nhau của sản phụ mạnh khỏe không bệnh tật. Muốn vậy, những người ta định lấy nhau cần được khám nghiệm cẩn thận. Kinh nghiệm cho biết những nhau to bất thường, mặt gồ ghề hoặc mụn nhỏ trên phía mặt cuống nhau là loại có thể nhiễm trùng bệnh giang mai, không nên dùng.

Nhau nào còn nguyên bọc, không sây sát, hồng tươi là nhau tốt.

Nhau là một chất thịt đang còn tiếp tục sống cho nên sau khi lấy được cần được chế biến hết sức sớm để tránh hỏng thối. Thường không nên để lâu quá 1-2 giờ, nhất là khi trời nóng ấm. Trời rét có thể để lâu hơn.

Khi lấy nhau, tay phải rửa xà phòng thật sạch, bát hay dao, kéo, gạc dùng chế biến cần rửa sạch, luộc nước sôi lâu và kỹ để tiệt trùng.

Nhau lấy ra lập tức dùng vải hay gạc mềm đã luộc sôi lau khô máu và chất nhờn. Chú ý đừng ấn mạnh tay quá sẽ làm nước bổ trong nhau tiết ra mất. Sau đó rửa bằng nước muối (một lít nước khoảng 9-10g muối) bóc hết màng, cắt bỏ những ống máu đọng trên mặt nhau.

Có khi nhau sản phụ được dùng ngay, có khi cho vào tủ lạnh giữ ở nhiệt độ từ  0-4º trong vòng 7-10 ngày theo phương pháp Pilatốp rồi mới dùng.

Sau khi đã rửa xong, hoặc rửa rồi lại đựoc ướp lạnh theo phương pháp Philatốp ta có thể chế theo một những phương pháp sau đây:

1. Ngâm rượu nhau:

   Thái hay cắt nhỏ ngâm với rượu trắng. Cứ 1 cái nhau, cho vào 1 hoặc 1,5 lít rượu 40-50º. Ngâm 10-15 hôm trở lên có thể gạn lấy rượu uống dần. Có thể cho thêm tinh dầu thơm như rượu vỏ cam, vỏ quít hoặc vani, v.v... cho thơm. Khi uống có thể thêm mật ong, đường.

   Chú ý phải cho rượu đủ độ và lượng nói trên hay nhiều mới khỏi thối hỏng, vì trong nhau sản phụ có rất nhiều nước, nếu cho ít rượu quá, nước có sẵn trong nhau sản phụ làm cho độ rượu bị pha loãng không đủ để bảo quản nhau. Sau khi gạn uống hết chỗ rượu trên, có thể thêm nửa lít rượu nữa ngâm thêm.

2. Ngâm với mật ong:

   Rửa sạch một làn nữa nhau thai bằng rượu 40-50º. Thái  nhỏ cho 1 lít hay 2 lít mật ong tốt. Đợi nửa tháng đến một tháng mật ong sẽ tiêu cả cái nhau. Thực tế các chất trong nhau thai chuyển tan vào mật ong, còn lại các tế bào của nhau chứ toàn bộ nhau không tan hết như người ta thường nói.

   Lấy mật ong đó uống dần. Hình thức này hợp đối với người không uống được rượu, nhưng cần chú ý chọn mật ong tốt, nguyên chất nếu không dễ bị thối, vì lượng nước trong nhau có thể làm loãng mật ong làm cho mật ong giảm bớt khả năng bảo quản.

3. Chế biến nhau sản phụ dưới hình thức món ăn như băm nhau với trứng, nướng chả v.v...: Hình thức này cũng tốt nhưng có điều bất tiện phải ăn một lúc số lượng quá lớn.

Trong các sách cổ nói đến nhiều phương pháp bào chế khác, chúng tôi chỉ trích giới thiệu ở đây phương pháp ghi trong Bộ Bản thảo cương mục của Lý Thời Trân: "Tử hà sa trong các bài thuốc cổ không chia trai gái, các đời sau mới chia ra của con giai để chữa bệnh nam giới, của con gái để chữa bệnh phụ nữ. Lại có sách khác nói bệnh nam giới dùng của con gái, bệnh phụ nữ dùng của con giai, thứ nhất là của người đẻ con so, không có thời lấy của người đàn bà vô bệnh cũng được. Khi đã lấy được ngâm với nước vo gạo trong, rửa cho sạch, rồi để vào giỏ đan bằng tre, ngâm vào giữa dòng nước chảy rửa bỏ hết gân màng, rồi lấy rượu ngâm nhũ hương (nhựa của cây Pistacia lentiscus - chú  thích của Đỗ Tất Lợi) rửa qua sấy khô tán bột. Cũng có khi ép vào ngói để sấy cho khô, lại có khi đun với rượu giã cho thật nhuyễn hoặc để vào chõ đồ cho chín đem phơi, phương pháp đồ tốt hơn".

Có người nói không nên bỏ gân vào màng.

C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Trong nhau sản phụ có một chất protit đặc biệt cấu tạo bởi 8 phân tử N-axetyl d- glucozamin C6H13O5N, 6 phân tử d-galactoza và 6 phân tử manoza. Ngoài ra có pepton, anbumoza (albumoza) polypeptit và cholin.

Trong nhau sản phụ tươi còn có các nội tiết tố chorionic gonadotropin, kích noãn tố F. S. H (Follciculin stimulating hormon) làm cho bọc trứng và trứng phát triển, đồng thời làm cho học trứng tiết ra noãn tố tức là nữ tiết tố sinh dục nữ và kích tố hoàng thể L. H. (lutenizing hormon) có khả năng làm cho trứng chín, bọc trứng mở ra và trứng rụng sau đó làm cho trứng chín, bọc trứng mở ra và trứng rụng sau đó làm cho vỏ bọc trứng còn lại chuyển thành hoàng thể.

D. NHIỆM VỤ SINH LÝ CỦA NHAU SẢN PHỤ

Nhau sản phụ đứng trung gian giữa mẹ và bào thai và giữ nhiệm vụ:

   1. Bảo vệ cái thai.

   2. Nuôi dưỡng thai.

   3. Đóng vai trò một hạch nội tiết.

Để làm nhiệm vụ bảo vệ thai nhau sản phụ lọc một số chất độc hay một số chất không cho qua thai. Nhưng nhiều khi nhau sản phụ không lọc hết tất cả mọi chất độc. Ví dụ nhau sản phụ lọc và giữ lại chất quinin, nhưng lại để các chất cafêin và veronal đi qua. Khi mẹ được chủng đậu, những chất miễn dịch bệnh đậu (anticorps) cũng có trong nhau sản phụ.

Trong nhiệm vụ nuôi dưỡng thai, nhau sản phụ vừa là vừa là một kho dự trữ thức ăn, vừa là một hạch tạo ra các thức ăn.

Trong nhau sản phụ có tích lũy glycogen như ở gan, chất mỡ, chất protit. Nhau sản phụ có rất nhiều muối vô cơ, các men tiêu hóa chất bột (amylaza) men tiêu hóa chất béo (lipaza), v.v...

Do các chất men chứa trong nhau sản phụ, các chất dinh dưỡng trong máu mẹ được chế biến trong nhau sản phụ thành các thức ăn trực tiếp hấp thụ được. Vì không liên hệ trực tiếp giữa tuần hoàn của mẹ và bào thai cho nên các thức ăn cần được các thức ăn trong nhau sản phụ tiêu hóa trước khi vào bào thai.

Nhau sản phụ là một cơ sở giúp sự miễn dịch, do đó thuốc chế từ nhau sản phụ có thể chữa và phòng một số bệnh do nhiễm trùng.

Trong nhiệm vụ hạch nội tiết. Nhau sản phụ tiết ra nội tiết tố hydrat folliculin hay ơstrion (hydratte de folliculin = oestrol) và nội tiết tố oertradiol. Các chất nội tiết tố xuất hiện từ tháng thứ ba trong nước tiểu người mẹ, khi nhau sản phụ được tống ra ngoài thì không thấy các chất nội tiết tố đó trong nước tiểu nữa.

Ngoài ra nhau sản phụ còn chiết ra chất hoàng thể tố: Progesteron như chất nội tiết của buồng trứng. Lượng progesteron tăng dần cho đến ngày sinh đẻ.

Nhau sản phụ còn tiết và tích lũy các nội tiết gônnadotrôp giống như các chất nội tiết của thùy trước tuyến yên gồm gonadostimulin A và gonadostimulin B. Chúng ta biết rằng gonadostimulin A là một chất nội tiết có tác dụng làm trứng chóng trưởng thành (đối với cái) và kích thích sự tạo thành tinh trùng (đối với đực). Còn Gonadostimulin B giữ cho hoàng thể ở buồng trứng tồn tại và tiết ra nhiều progesteron (đối với cái) hoặc phát triển hòn dái và tinh nang đối với con đực.

E. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Trong nhân dân nhau sản phụ được coi là một vị thuốc rất bổ, bổ khí, nuôi huyết, ích tinh, dùng chữa các bệnh lao lực, gầy còm, ho nhiều, trong xương đau nhức, kém ăn, kém ngủ, hen suyễn, di mộng tinh.

Ngày dùng 2-4g dưới hình thức bột, hoặc 20-30ml rượu nhau hoặc mật ong ngâm nhau nói ở trên.

Theo tài liệu cổ: Nhau có vị ngọt, mặn, tính ôn; vào 2 kinh Can và Thận. Có tác dụng đại bổ khí huyết. Dùng chữa gầy yếu, ho suyễn, nhiều mồ hôi, đau nhức trong xương, di tinh, hoạt tinh. Người có thực tà không dùng được.

Đơn thuốc có vị hà sa:

- Đơn thuốc có vị hà sa đại tạo hoàn hay đại tạo hoàn:

   Bài thuốc rất được nhân dân tín nhiệm.

   Bài thuốc này được ghi trong bộ Bản  thảo cương mục (từ thế kỷ 16) như sau:

   "... Nếu gặp người sắp chết, chỉ còn thoi thóp dùng một vài liều, cũng có thể sống thêm được vài ngày. Sự công hiệu bổ âm của nó rất vĩ đại, trăm người dùng thời tin cả trăm. Uống nó nhiều lần, tai mắt sẽ sáng tỏ thêm, râu tóc đã bạc lại đen, sống lâu mạnh khỏe, thật là hiệu nghiệm cướp được công của tạo hóa vì thế mới gọi bài thuốc là đại tạo hoàn hay hà sa đại tạo hoàn.

   1. Hà sa (nhau sản phụ) 1 cái: Ngâm nước gạo rửa sạch ép vào ngói mới, sấy khô, tán bột hoặc tẩm rượu, đồ chín, phơi khô tán bột.

   2. Quy bản 2 lạng (80g) tẩm nước tiểu trẻ em 3 ngày, phơi khô, sau lại tẩm dấm thanh sấy cho vàng.

   3. Hoàng bá bỏ vỏ tẩm vào muối, sao qua 1 lạng rưỡi (60g).

   4. Đỗ trọng bỏ vỏ, tẩm với sữa nướng dòn 1 lạng rưỡi (60g).

   5. Ngưu tất bỏ cuống tẩm với rượu 1 lạng 2 đồng (48g).

   6. Địa hoàng 2 lạng rưỡi (100g) trộn với 6 đồng cân (24g) sa nhân và 2 lạng (80g) bạch phục linh. Cho cả vào túi lụa ngâm vào hũ rượu đem đun lên 7 lần rồi bỏ phục linh và sa nhân chỉ lấy địa hoàng giã cho nhuyễn.

   7. Thiên môn đông 1 lạng 2 đồng cân (48g) bỏ lõi.

   8. Mạch môn đông 1 lạng 2 đồng cân (48g) bỏ lõi.

   9. Nhân sâm bỏ rễ con 1 lạng 2 đồng cân (48g).

   Nếu dùng chữa bệnh mùa hạ thêm 7 đồng cân (28g) ngũ vị tử.

   Tất cả các vị trên tán bột luyện với cao địa hoàng viên bằng hạt đậu nhỏ. Mỗi lần uống 50 viên, hòa nước muối làm thang chiêu thuốc. Mùa đông dùng rượu để chiêu thuốc.

   Nếu dùng cho phụ nữ thì bỏ quy bản, thay bằng:

   10. Đương quy 2 lạng (80g) nấu với nhũ hương, luyện hồ mà làm thành viên.

   Nếu nam giới mắc bệnh di tinh, phụ nữ mắc bệnh đới hạ (khi hư) thêm:

   11. Mẫu lệ phấn 1 lạng (40g).

Một người mắc bệnh suy yếu, dương sự không cử lên được, uống hai tễ thuốc này thân thể sẽ khỏe hẳn lên, mấy năm sinh được 4 con giai. Một phụ nữ 60 tuổi uống bài thuốc này thọ tới 90 tuổi vẫn còn khỏe mạnh. Một người đàn ông sau khi ốm nặng đã khỏi bỗng dưng không nói được, sau khi uống bài này sức càng thêm khỏe, tiếng lại cũng to. Một người đàn ông mắc bệnh "nuy" hai chân không đi được đã tới nửa năm, sau khi uống bài này đi được xa không hề mỏi mệt”.

(Những liều lượng theo gam là chú thích thêm của Đỗ Tất Lợi).

Chú thích: Ngoài nhau sản phụ ra người ta còn dùng cả cuống nhau hay cuống rốn gọi là tề đới (Restis umbilicals) sấy khô. Dùng chữa ho suyễn, mồ hôi trộm, hư lao, bổ thận khí.

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

focus Sầu riêng
11/06/2025 08:05 CH

- 榴蓮 (榴莲). Còn gọi là thu ren (Campuchia), durio. Tên khoa học Durio zibethinus Murray. Thuộc họ Bông (Bombacaceae).

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Thanh thất - 嶺南臭椿 (岭南臭椿). Còn gọi là bụt, bông xướt, càn thôn. Tên khoa học Ailanthus malabarica DC. Thuộc họ Thanh thất (Simarubaceae).
Thảo đậu khấu - 草豆蔻. Còn gọi là thảo khấu nhân, ngẫu tử. Tên khoa học Alpnia katsumadai Hayt. Thuộc họ Gừng (Zingiberaceae). Thảo đậu khấu (Semen Alpiniae katsumadai) là hạt phơi hay sấy khô lấy từ quả gần chín của cây thảo khấu (Alpinia katsumadai).
Thảo quả - 草果. Còn gọi là đò ho, tò ho, mac hâu, may mac hâu (Thái). Tên khoa học Amomum tsao-ko Crev. et Lem. (Amomum aromaticum Roxb. Amomun medium Lour.). Thuộc họ Gừng (Zingiberaceae).
Thảo quyết minh - 草决明. Còn gọi là quyết minh, hạt muồng, đậu ma, giả lục đậu, giả hoa sinh, lạc giời. Tên khoa học Cassia tora L. Thuộc họ Vang (Caesalpiniaceae). Ta dùng thảo quyết minh (Semen Cassiae) là hạt phơi hay sấy khô của cây thảo quyết minh.
Thầu dầu - 蓖麻. Còn gọi là đu đủ tía, dầu ve, tỳ ma. Tên khoa học Ricinus communis L. Thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae). Cây thầu dầu cung cấp các vị thuốc sau dây: (1) Dầu thầu dầu - tỳ ma du (Oleum Ricini) là dầu ép từ hạt cây thầu dầu. (2) Hạt thầu dầu - tỳ ma tử là hạt phơi khô của cây thầu dầu. (3) Lá thầu dầu (Folium Ricini) là lá tươi của cây thầu dầu.
Thị - 黃柿. Còn gọi là thị muộn. Tên khoa học Diospyros decandra Lour. Thuộc họ Thị (Ebenaceae).
Thị đế - 柿蒂. Còn gọi là thị đinh, tai hồng, hồng. Tên khoa học Diospyros kaki L. f. Thuộc họ Thị (Ebenaceae). Thị đế (Calyx kaki) là tai hồng phơi hay sấy khô. Cây hồng có tên Trung Quốc là thị: Đế là tai, là đế.
Thìa là - 蒔蘿 (莳萝). Còn gọi là rau thìa là, phăk si (Lào-Vientian), aneth (Pháp). Tên khoa học Anethum graveolens L. (Peucedanum graveolens Benth. et Hook.). Thuộc họ Hoa tán Apiaceae (Umbelliferae). Thìa là cho quả dùng làm thuốc.
Thiên đầu thống - 破布木. Còn gọi là cây lá trắng, cây ong bầu, trường xuyên hoa. Tên khoa học Cordia obliqua Willd. (Corlia dichotoma Forst). Thuộc họ Vòi voi (Borraginaceae).
Thiên đông môn - 天門冬. Còn có tên là thiên môn, thiên đông, dây tóc tiên. Tên khoa học Asparagus cochinchinensis (Lour.) Merr. (Asparagus lucidus Lindl.). Thuộc họ Hành tỏi (Liliaceae). Ta dùng rễ khô (Radix Asparagi) của cây thiên môn đông.
Thiên lý - 夜来香. Còn gọi là cây hoa lý, hoa thiên lý, dạ lài hương. Tên khoa học Telosma cordata (Burm.f.) Merr. (Asclepias cordata Burm.f., Pergularia minor Andr. Pergularia odoratissima Wight, Asclepias odoratissima Roxb.). Thuộc họ Thiên lý (Asclepiadaceae).
Thiên niên kiện - 千年健. Còn gọi là sơn thục. Tên khoa học Homalomena aromatica (Roxb). Schott (Calla aromatica Roxb). Thuộc họ Ráy (Araceae). Thiên niên kiện (Rhizoma Homalomenae) là thân rễ phơi hay sấy khô của cây thiên niên kiện. Tên thiên niên kiện vì người ta cho rằng uống vị thuốc này thì nghìn năm khỏe mạnh (thiên là nghìn, niên là năm, kiện là khỏe mạnh).
Thiến thảo - 茜草. Còn gọi là tây thảo, mao sáng (mèo), thiên căn, thiến căn. Tên khoa học Rubia cordifolia L. Thuộc họ Cà phê (Rubiacae).
Thiên tiên tử - 天仙子. Còn gọi là sơn yên tử, đại sơn yên tử, jusquiame (Pháp), mont aux poules. Tên khoa học Hyoscyamus niger L. Thuộc họ Cà (Solanaceae).
Thiên trúc hoàng - 天竹黄. Còn có tên là trúc hoàng phấn, phấn nứa, trúc cao. Tên khoa học Concretio silicea Bambusa hay Tabashir. Thiên trúc hoàng là cặn đọng ở đốt một số cây nứa mọc ở nước ta, tên khoa học của nứa là Bambusa sp. thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae). Những cây nứa này bị một loại bệnh làm cho chất nước trong cây ngưng đọng lại. Tên những cây nứa ở nước ta chưa được xác định chắc chắn, vì ít khi thấy có hoa hoặc quả. Có tác giả xác định là Arundinaria racemosa Munro hoặc Bambusa arundinacea Retz (A. Petelot 1954). Theo các tác giả Trung Quốc (Dược tài học 1960) các loài nứa có thiên trúc hoàng lại thuốc các loài Phyllotachys reticulaa C. Koch hoặc Phyllotachys nigra Munro var henonis Makino thuộc cùng họ Lúa Poaceae (Gramineae).
Thổ cao ly sâm - 土人參 (土人参). Còn gọi là sâm, đông dương sâm, cao ly sâm, sâm thảo, giả nhân sâm, thổ nhân sâm. Tên khoa học Talinul crassifolium Willd. (Talinum patens L., Talinum paniculatum Gaertn.). Thuộc họ Rau sam (Portulaceaceae). Nhiều người vẫn nhầm cây này gọi là cây nhân sâm, cần chú ý để phân biệt.
Thổ hoàng liên - 馬尾黃連 (马尾黄连). Tên khoa học Thalictrum foliolosum D.C. Thuộc họ Mao lương (Ranunculaceae). Thổ hoàng liên (Rhizoma Thalictri) là thân rễ phơi hay sấy khô của cây thổ hoàng liên (Thalictrum foliolosum D.C.) và nhiều loài khác thuộc giống Thalictrum.
Thổ phục linh - 土茯苓. Còn gọi là củ khúc khắc, củ kim cang. Tên khoa học Smilax glabra Roxb. (Smilax hookeri Kunth). Thuộc họ Hành tỏi (Liliaceae). Thổ phục linh (Rhizoma Smilacis) là thân rễ phơi hay sấy phô của nhiều cây thuộc chi Smilax, trong đó có cây Smilax glabra.
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]