Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

NHAU SẢN PHỤ - 紫河車 (紫河车)

Còn gọi là thai bàn, thai y, thai bào, nhân bào, tử hà sa.

Tên khoa học Placenta Hominis.

NHAU SẢN PHỤ, 紫河車, 紫河车, thai bàn, thai y, thai bào, nhân bào, tử hà sa, Placenta Hominis

Nhau thai và thai - Placenta Hominis

Nhau sản phụ là bộ phận ở trong tử cung của người mẹ cùng với cái thai. Khi thai còn ở bụng mẹ thì nhau sản phụ có nhiệm vụ che chở và nuôi dưỡng thai.

A. NGUỒN GỐC NHAU SẢN PHỤ

Nhau sản phụ nói ở đây là nhau của người (Homo sapiens) thuộc ngành có xương sống (Vertebrata), lớp có vú Mammalita, họ người (Hominidae).

Phụ nữ đến tuổi đều có kinh nguyệt, hàng tháng hai buồng trứng sản xuất ra trứng. Trứng gặp tinh trùng sẽ thụ tinh và qua vòi dẫn trứng xuống đậu ở tử cung. Trứng phát triển thành thai. Nhưng vì trứng không có chất dùng để dự trữ nuôi dưỡng cái thai như trong trứng gà trứng vịt cho nên từ thành của tử cung sẽ tạo ra một bộ phận có nhiệm vụ nuôi dưỡng, hô hấp, bài tiết và cung cấp nội tiết tố cho cái thai tức là nhau sản phụ.

Khi sinh nở, tử cung co bóp cổ tử cung mở rộng, trước hết tống thai ra ngoài, người ta cắt rốn cho thai, được ít lâu sau tử cung co bóp lần nữa, tống nhau sản phụ ra.

Ngoài nhau của người, ta có thể dùng nhau của bò lợn, cừu dê hay những gia súc khác.

B. CHẾ BIẾN NHAU SẢN PHỤ

Cần chọn nhau của sản phụ mạnh khỏe không bệnh tật. Muốn vậy, những người ta định lấy nhau cần được khám nghiệm cẩn thận. Kinh nghiệm cho biết những nhau to bất thường, mặt gồ ghề hoặc mụn nhỏ trên phía mặt cuống nhau là loại có thể nhiễm trùng bệnh giang mai, không nên dùng.

Nhau nào còn nguyên bọc, không sây sát, hồng tươi là nhau tốt.

Nhau là một chất thịt đang còn tiếp tục sống cho nên sau khi lấy được cần được chế biến hết sức sớm để tránh hỏng thối. Thường không nên để lâu quá 1-2 giờ, nhất là khi trời nóng ấm. Trời rét có thể để lâu hơn.

Khi lấy nhau, tay phải rửa xà phòng thật sạch, bát hay dao, kéo, gạc dùng chế biến cần rửa sạch, luộc nước sôi lâu và kỹ để tiệt trùng.

Nhau lấy ra lập tức dùng vải hay gạc mềm đã luộc sôi lau khô máu và chất nhờn. Chú ý đừng ấn mạnh tay quá sẽ làm nước bổ trong nhau tiết ra mất. Sau đó rửa bằng nước muối (một lít nước khoảng 9-10g muối) bóc hết màng, cắt bỏ những ống máu đọng trên mặt nhau.

Có khi nhau sản phụ được dùng ngay, có khi cho vào tủ lạnh giữ ở nhiệt độ từ  0-4º trong vòng 7-10 ngày theo phương pháp Pilatốp rồi mới dùng.

Sau khi đã rửa xong, hoặc rửa rồi lại đựoc ướp lạnh theo phương pháp Philatốp ta có thể chế theo một những phương pháp sau đây:

1. Ngâm rượu nhau:

   Thái hay cắt nhỏ ngâm với rượu trắng. Cứ 1 cái nhau, cho vào 1 hoặc 1,5 lít rượu 40-50º. Ngâm 10-15 hôm trở lên có thể gạn lấy rượu uống dần. Có thể cho thêm tinh dầu thơm như rượu vỏ cam, vỏ quít hoặc vani, v.v... cho thơm. Khi uống có thể thêm mật ong, đường.

   Chú ý phải cho rượu đủ độ và lượng nói trên hay nhiều mới khỏi thối hỏng, vì trong nhau sản phụ có rất nhiều nước, nếu cho ít rượu quá, nước có sẵn trong nhau sản phụ làm cho độ rượu bị pha loãng không đủ để bảo quản nhau. Sau khi gạn uống hết chỗ rượu trên, có thể thêm nửa lít rượu nữa ngâm thêm.

2. Ngâm với mật ong:

   Rửa sạch một làn nữa nhau thai bằng rượu 40-50º. Thái  nhỏ cho 1 lít hay 2 lít mật ong tốt. Đợi nửa tháng đến một tháng mật ong sẽ tiêu cả cái nhau. Thực tế các chất trong nhau thai chuyển tan vào mật ong, còn lại các tế bào của nhau chứ toàn bộ nhau không tan hết như người ta thường nói.

   Lấy mật ong đó uống dần. Hình thức này hợp đối với người không uống được rượu, nhưng cần chú ý chọn mật ong tốt, nguyên chất nếu không dễ bị thối, vì lượng nước trong nhau có thể làm loãng mật ong làm cho mật ong giảm bớt khả năng bảo quản.

3. Chế biến nhau sản phụ dưới hình thức món ăn như băm nhau với trứng, nướng chả v.v...: Hình thức này cũng tốt nhưng có điều bất tiện phải ăn một lúc số lượng quá lớn.

Trong các sách cổ nói đến nhiều phương pháp bào chế khác, chúng tôi chỉ trích giới thiệu ở đây phương pháp ghi trong Bộ Bản thảo cương mục của Lý Thời Trân: "Tử hà sa trong các bài thuốc cổ không chia trai gái, các đời sau mới chia ra của con giai để chữa bệnh nam giới, của con gái để chữa bệnh phụ nữ. Lại có sách khác nói bệnh nam giới dùng của con gái, bệnh phụ nữ dùng của con giai, thứ nhất là của người đẻ con so, không có thời lấy của người đàn bà vô bệnh cũng được. Khi đã lấy được ngâm với nước vo gạo trong, rửa cho sạch, rồi để vào giỏ đan bằng tre, ngâm vào giữa dòng nước chảy rửa bỏ hết gân màng, rồi lấy rượu ngâm nhũ hương (nhựa của cây Pistacia lentiscus - chú  thích của Đỗ Tất Lợi) rửa qua sấy khô tán bột. Cũng có khi ép vào ngói để sấy cho khô, lại có khi đun với rượu giã cho thật nhuyễn hoặc để vào chõ đồ cho chín đem phơi, phương pháp đồ tốt hơn".

Có người nói không nên bỏ gân vào màng.

C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Trong nhau sản phụ có một chất protit đặc biệt cấu tạo bởi 8 phân tử N-axetyl d- glucozamin C6H13O5N, 6 phân tử d-galactoza và 6 phân tử manoza. Ngoài ra có pepton, anbumoza (albumoza) polypeptit và cholin.

Trong nhau sản phụ tươi còn có các nội tiết tố chorionic gonadotropin, kích noãn tố F. S. H (Follciculin stimulating hormon) làm cho bọc trứng và trứng phát triển, đồng thời làm cho học trứng tiết ra noãn tố tức là nữ tiết tố sinh dục nữ và kích tố hoàng thể L. H. (lutenizing hormon) có khả năng làm cho trứng chín, bọc trứng mở ra và trứng rụng sau đó làm cho trứng chín, bọc trứng mở ra và trứng rụng sau đó làm cho vỏ bọc trứng còn lại chuyển thành hoàng thể.

D. NHIỆM VỤ SINH LÝ CỦA NHAU SẢN PHỤ

Nhau sản phụ đứng trung gian giữa mẹ và bào thai và giữ nhiệm vụ:

   1. Bảo vệ cái thai.

   2. Nuôi dưỡng thai.

   3. Đóng vai trò một hạch nội tiết.

Để làm nhiệm vụ bảo vệ thai nhau sản phụ lọc một số chất độc hay một số chất không cho qua thai. Nhưng nhiều khi nhau sản phụ không lọc hết tất cả mọi chất độc. Ví dụ nhau sản phụ lọc và giữ lại chất quinin, nhưng lại để các chất cafêin và veronal đi qua. Khi mẹ được chủng đậu, những chất miễn dịch bệnh đậu (anticorps) cũng có trong nhau sản phụ.

Trong nhiệm vụ nuôi dưỡng thai, nhau sản phụ vừa là vừa là một kho dự trữ thức ăn, vừa là một hạch tạo ra các thức ăn.

Trong nhau sản phụ có tích lũy glycogen như ở gan, chất mỡ, chất protit. Nhau sản phụ có rất nhiều muối vô cơ, các men tiêu hóa chất bột (amylaza) men tiêu hóa chất béo (lipaza), v.v...

Do các chất men chứa trong nhau sản phụ, các chất dinh dưỡng trong máu mẹ được chế biến trong nhau sản phụ thành các thức ăn trực tiếp hấp thụ được. Vì không liên hệ trực tiếp giữa tuần hoàn của mẹ và bào thai cho nên các thức ăn cần được các thức ăn trong nhau sản phụ tiêu hóa trước khi vào bào thai.

Nhau sản phụ là một cơ sở giúp sự miễn dịch, do đó thuốc chế từ nhau sản phụ có thể chữa và phòng một số bệnh do nhiễm trùng.

Trong nhiệm vụ hạch nội tiết. Nhau sản phụ tiết ra nội tiết tố hydrat folliculin hay ơstrion (hydratte de folliculin = oestrol) và nội tiết tố oertradiol. Các chất nội tiết tố xuất hiện từ tháng thứ ba trong nước tiểu người mẹ, khi nhau sản phụ được tống ra ngoài thì không thấy các chất nội tiết tố đó trong nước tiểu nữa.

Ngoài ra nhau sản phụ còn chiết ra chất hoàng thể tố: Progesteron như chất nội tiết của buồng trứng. Lượng progesteron tăng dần cho đến ngày sinh đẻ.

Nhau sản phụ còn tiết và tích lũy các nội tiết gônnadotrôp giống như các chất nội tiết của thùy trước tuyến yên gồm gonadostimulin A và gonadostimulin B. Chúng ta biết rằng gonadostimulin A là một chất nội tiết có tác dụng làm trứng chóng trưởng thành (đối với cái) và kích thích sự tạo thành tinh trùng (đối với đực). Còn Gonadostimulin B giữ cho hoàng thể ở buồng trứng tồn tại và tiết ra nhiều progesteron (đối với cái) hoặc phát triển hòn dái và tinh nang đối với con đực.

E. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Trong nhân dân nhau sản phụ được coi là một vị thuốc rất bổ, bổ khí, nuôi huyết, ích tinh, dùng chữa các bệnh lao lực, gầy còm, ho nhiều, trong xương đau nhức, kém ăn, kém ngủ, hen suyễn, di mộng tinh.

Ngày dùng 2-4g dưới hình thức bột, hoặc 20-30ml rượu nhau hoặc mật ong ngâm nhau nói ở trên.

Theo tài liệu cổ: Nhau có vị ngọt, mặn, tính ôn; vào 2 kinh Can và Thận. Có tác dụng đại bổ khí huyết. Dùng chữa gầy yếu, ho suyễn, nhiều mồ hôi, đau nhức trong xương, di tinh, hoạt tinh. Người có thực tà không dùng được.

Đơn thuốc có vị hà sa:

- Đơn thuốc có vị hà sa đại tạo hoàn hay đại tạo hoàn:

   Bài thuốc rất được nhân dân tín nhiệm.

   Bài thuốc này được ghi trong bộ Bản  thảo cương mục (từ thế kỷ 16) như sau:

   "... Nếu gặp người sắp chết, chỉ còn thoi thóp dùng một vài liều, cũng có thể sống thêm được vài ngày. Sự công hiệu bổ âm của nó rất vĩ đại, trăm người dùng thời tin cả trăm. Uống nó nhiều lần, tai mắt sẽ sáng tỏ thêm, râu tóc đã bạc lại đen, sống lâu mạnh khỏe, thật là hiệu nghiệm cướp được công của tạo hóa vì thế mới gọi bài thuốc là đại tạo hoàn hay hà sa đại tạo hoàn.

   1. Hà sa (nhau sản phụ) 1 cái: Ngâm nước gạo rửa sạch ép vào ngói mới, sấy khô, tán bột hoặc tẩm rượu, đồ chín, phơi khô tán bột.

   2. Quy bản 2 lạng (80g) tẩm nước tiểu trẻ em 3 ngày, phơi khô, sau lại tẩm dấm thanh sấy cho vàng.

   3. Hoàng bá bỏ vỏ tẩm vào muối, sao qua 1 lạng rưỡi (60g).

   4. Đỗ trọng bỏ vỏ, tẩm với sữa nướng dòn 1 lạng rưỡi (60g).

   5. Ngưu tất bỏ cuống tẩm với rượu 1 lạng 2 đồng (48g).

   6. Địa hoàng 2 lạng rưỡi (100g) trộn với 6 đồng cân (24g) sa nhân và 2 lạng (80g) bạch phục linh. Cho cả vào túi lụa ngâm vào hũ rượu đem đun lên 7 lần rồi bỏ phục linh và sa nhân chỉ lấy địa hoàng giã cho nhuyễn.

   7. Thiên môn đông 1 lạng 2 đồng cân (48g) bỏ lõi.

   8. Mạch môn đông 1 lạng 2 đồng cân (48g) bỏ lõi.

   9. Nhân sâm bỏ rễ con 1 lạng 2 đồng cân (48g).

   Nếu dùng chữa bệnh mùa hạ thêm 7 đồng cân (28g) ngũ vị tử.

   Tất cả các vị trên tán bột luyện với cao địa hoàng viên bằng hạt đậu nhỏ. Mỗi lần uống 50 viên, hòa nước muối làm thang chiêu thuốc. Mùa đông dùng rượu để chiêu thuốc.

   Nếu dùng cho phụ nữ thì bỏ quy bản, thay bằng:

   10. Đương quy 2 lạng (80g) nấu với nhũ hương, luyện hồ mà làm thành viên.

   Nếu nam giới mắc bệnh di tinh, phụ nữ mắc bệnh đới hạ (khi hư) thêm:

   11. Mẫu lệ phấn 1 lạng (40g).

Một người mắc bệnh suy yếu, dương sự không cử lên được, uống hai tễ thuốc này thân thể sẽ khỏe hẳn lên, mấy năm sinh được 4 con giai. Một phụ nữ 60 tuổi uống bài thuốc này thọ tới 90 tuổi vẫn còn khỏe mạnh. Một người đàn ông sau khi ốm nặng đã khỏi bỗng dưng không nói được, sau khi uống bài này sức càng thêm khỏe, tiếng lại cũng to. Một người đàn ông mắc bệnh "nuy" hai chân không đi được đã tới nửa năm, sau khi uống bài này đi được xa không hề mỏi mệt”.

(Những liều lượng theo gam là chú thích thêm của Đỗ Tất Lợi).

Chú thích: Ngoài nhau sản phụ ra người ta còn dùng cả cuống nhau hay cuống rốn gọi là tề đới (Restis umbilicals) sấy khô. Dùng chữa ho suyễn, mồ hôi trộm, hư lao, bổ thận khí.

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

focus Nọc ong
17/06/2025 08:11 CH

- 蜂毒. Nọc ong là một vị thuốc được nhân dân nhiều nước châu Á và châu Âu biết dùng từ lâu để chữa nhiều bệnh khác nhau. Nọc ong là sản phẩm của những tuyến đặc biệt trong cơ thể con ong, muốn dùng nọc ong trước đây người ta cho con ong đốt, hay có khi người...

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Lười ươi - 胖大海. Còn gọi là đười ươi, bàng đại hải, đại hải tử, sam rang, sam rang si phlè, som vang, som rong sva (Cămpuchia), crap chi ling leak, mak chong (Pakse-Lào), đại hải, an nam tử, đại đồng quả, đại phát (Trung Quốc), tam bayang, noix de Malva, graine gonflante (Pháp). Tên khoa học Sterculia lychnophora Hance. Thuộc họ Trôm (Sterculiaceae).
Mã đề - 車前. Còn gọi là mã đề thảo, xa tiền, nhả én, dứt (Thái), su ma (Thổ). Tên khoa học Plantago asiatica L. (Plantago major L. var. asiatica Decaisne). Thuộc họ Mã đề (Plantaginaceae). Cây mã đề cho các vị thuốc có tên sau đây: 1. Xa tiền tử: Semen plantaginis - là hạt phơi hay sấy khô. 2. Mã đề thảo: Herba plantaginis - là toàn cây trừ bỏ rễ phơi hay sấy khô. 3. Lá mã đề: Folium plantaginix - là lá tươi hay phơi hoặc sấy khô.
Ma hoàng - 麻黃. Còn gọi là thảo ma hoàng, xuyên ma hoàng sơn ma hoàng, mộc tặc ma hoàng, mộc ma hoàng, trung ma hoàng. Tên khoa học Ephedra sinica Stapf., Ephedra equisetina Bunge, Ephedra intermedia Schrenk et Mey. Thuộc họ Ma hoàng (Ephedraceae). Ma hoàng (Herba Ephedrae) là ngọn hay phần trên mặt đất của nhiều loài ma hoàng phơi hay sấy khô. Tên ma hoàng vì vị thuốc có vị ma (cay cay tê tê, không rõ rệt) màu vàng. Tên Ephedra do chữ Epi có nghĩa là trên, hedra có nghĩa là đất, ý nói là cây thuốc mọc trên đá; chữ sinica có nghĩa là cây nguồn gốc ở Trung Quốc; equisetina là một tặc ý nói có loài ma hoàng giống cây mộc tặc (cỏ tháp bút).
Mã thầy - 荸薺 (荸荠). Còn gọi là củ năn, bột tề. Tên khoa học Heleocharis plantaginea R. Br. Thuộc họ Cói (Cyperaceae).
Mã tiền - 馬錢 (马钱). Còn gọi là củ chi, sleng thom, sleng touch (Campuchia), kok toung ka (Lào), vomiquier fausse angusture, mắc sèn sứ (Thổ) co bên kho (Thái). Tên khoa học Strychnos nuxvomica L. Thuộc họ Mã tiền (Loganiaceae). Tên mã tiền dùng để chỉ nhiều cây khác nhau thuộc chi Strychnos cho những hạt giống như chiếc khuy áo lớn, và có chứa những ancaloit có tác dụng mạnh chủ yếu là strycnin và bruxin. Có cây là cây đứng, có cây là dây leo. Nhiều cây leo chưa được xác định tên chắc chắn, thường chỉ mới tạm xác định là Strychnos sp. Có khi cùng một loài nhưng nếu khai thác hạt người ta gọi là cây mã tiền, nếu khai thác vỏ người ta lại gọi là cây hoàng nàn. Tên Strychnos do chữ Hy Lạp có nghĩa là những cây có độc, nux có nghĩa là quả cứng, vomica nghĩa là gây nôn, ý nói Strychnos nuxvomica là một cây có độc, quả cứng gây nôn.
Mắc kẹn - 七葉樹 (七叶树). Còn gọi là bàm bàm, ma keyeng, may kho, marronier. Tên khoa học Aesculus sinenisis Bunge. Thuộc họ Bồ Hòn (Sapindaceae).
Mắc nưa - 柿油樹. Còn gọi là mặc nưa, mac leua (Cămpuchia). Tên khoa học Diospyros mollis Griff. Thuộc họ Thị (Ebenaceae).
Mạch ba góc - 蕎麥 (荞麦). Còn gọi là tam giác mạch, lúa mạch đen, kiều mạch, sèo (Lào Cai, Yên Bái). Tên khoa học Fagopyrum esculentum Moench. (Fagopyrum sagittatum Cilib). Thuộc họ Rau răm (Polygonaceae). Ta có thể dùng toàn cây nhưng chủ yếu là lá và hoa của mạch ba góc để làm nguyên liệu chiết rutin.
Mạch môn đông - 麥門冬. Còn có tên là mạch đông, cây lan tiên. Tên khoa học Ophiopogon japonicus Wall. Thuộc họ Hành tỏi (Liliaceae). Người ta dùng rễ củ phơi hay sấy khô (Radix Ophiopogoni) của cây mạch môn đông. Vì lá giống lá lúa mạch, về mùa đông lá vẫn xanh tươi nên gọi là mạch đông.
Mạch nha - 麥芽. Tên khoa học Maltum. Mạch nha chính thức là hạt lúa mạch Hordeum sativum Jess. var. vulgare Hack hoặc một loài Hordeum khác thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae) cho mọc mầm, rồi sấy khô ở nhiệt độ dưới 60 độ. Ở Việt Nam ta vì chưa có lúa mạch, vẫn dùng hạt thóc tẻ (thóc chiêm hay thóc mùa đều được) Oryza sativa L. var. utilissima cùng họ để ngâm cho nẩy mầm rồi phơi khô, gọi là cốc nha. Muốn có thóc nẩy mầm, chỉ cần đãi thóc sạch đất cát, ngâm nước cho ẩm, sau đó ủ kín, thỉnh thoảng tưới nước để giữ ẩm đều, sau vài ngày hạt thóc nảy mầm, khi nào một số mầm bắt đầu xanh thì lấy ra phơi nắng cho khô, để nguyên hoặc tán nhỏ, sãy hết trấu mà dùng.
Mai mực - 海螵鞘. Còn gọi là hải phiêu tiêu, mai cá mực, ô tặc cốt. Tên khoa học Sepia esculenta Hoyle, Sepiaandreana Steen-Strup. Thuộc họ Cá mực (Sepiidae). Ô tặc cốt - Os Sepiae là mai rửa sạch, phơi khô của con mực nang hay mực ván (Seppiaesculenta Hoyle) hoặc của con mực ống, mực cơm (Sepiidae) nhưng chủ yếu là mực nang hay mực ván vì mực cơm hay mực ống có mai nhỏ. Tên ô tặc vì theo cách sách cổ, con cá mực thích ăn thịt chim, thường giả chết nổi trên mặt nước, chim tưởng là xác chết, bay sà xuống để mổ, bị nó lôi xuống nước ăn thịt, ăn thịt nhiều quạ do đó thành tên vì ô là quạ, tặc là giặc, cốt là xương; ý nói xương của giặc đối với quạ. Tên hải phiêu tiêu vì vị thuốc giống tổ con bọ ngựa mà lại gặp ở ngoài bể (phiêu tiêu là tổ bọ ngựa).
Mâm xôi - 粗葉懸鉤子 (粗叶悬钩子). Còn gọi là đùm đũm. Tên khoa học Rubus alceaefolius Poir. (Rubus fimbriifeus Focke). Thuộc họ Hoa hồng (Rosaceae).
Màn kinh tử - 蔓荊子. Còn gọi là kinh tử, vạn kim tử, quan âm, thuốc kinh, thuốc ôn, đẹn ba lá. Tên khoa học Vitex trifoolia L. Thuộc họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae). Màn kinh tử (Fructus Viticis) là quả chín phơi hay sấy khô của cây quan âm hay cây màn kinh, còn gọi là cây thuốc ôn. Màn là mọc lan ra, kinh là gai. Thứ cây này mọc lan ra mặt đất, nên gọi tên như vậy.
Mần tưới - 澤蘭 (泽兰). Còn gọi là hương thảo, lan thảo, Ayapana du Tonkin. Tên khoa học Eupatorium staechadosmun Hance. Thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae).
Măng cụt - 山竺、山竹子. Còn gọi là sơn trúc tử, mangoustanier. Tên khoa học Garcinia mangostana L. (Mangostana garcinia Gaertn.). Thuộc họ Bứa Clusiaceae (Guttferae). Tuy mang tên sơn trúc tử tại Trung Quốc, nhưng Trung Quốc không có cây này, vẫn phải nhập từ nước ngoài vào.
Màng tang - 澄茄子. Còn gọi là tất trừng già. Tên khoa học Litsea cubeba (Lour.) Pers. Thuộc họ Long não (Lauraceae).
Mang tiêu - 芒硝. Còn gọi là phác tiêu, huyền minh phấn. Tên khoa học Mirabilita, Natrium Sulfuricum, Sal Glauberis. Mang tiêu (Natrium Sulfuricum, Sal Glauberis) là muối natri sunfat thiên nhiên tinh chế mà thành. Huyền minh phấn (Natrium Sulfuricum exciccatum) còn gọi là nguyên minh phấn, hay phong hóa tiêu là mang tiêu khử hết nước.
Mật động vật (đởm) Đông y và Tây y đều dùng mật động vật làm thuốc, nhưng Tây y chỉ hay dùng mật lợn, mật bò. Còn Đông y dùng mật của nhiều loài như mật gấu, mật dê, mật lợn, mật bò, mật trăn, mật rắn, mật gà, mật cá chép, .v.v.
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]