Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

NHÂN SÂM - 人蔘 (人参)

Còn có tên là viên sâm, dã nhân sâm.

Tên khoa học Panax ginseng C. A. Mey. (P. schinseng Nees.).

Thuộc họ Ngũ gia bì (Araliaceae).

NHÂN SÂM, 人蔘, 人参, viên sâm, dã nhân sâm, Panax ginseng C. A. Mey., P. schinseng Nees., họ Ngũ gia bì, Araliaceae

Nhân sâm - Panax ginseng

Tên nhân sâm do vị thuốc giống hình người. Tên Panax do chữ Hy Lạp pan là tất cả, acos là chữa được; có ý nói vị thuốc chữa được mọi bệnh; ginseng và schinseng là phiên âm chữ nhân sâm.

Mặc dầu vị nhân sâm hiện nay ta vẫn còn phải nhập nhưng công dụng quá phổ biến, nhiều người lầm với một số cây ta có. Liên Xô cũ, Trung Quốc, Triều Tiên đều đã giúp ta hạt giống và mầm để thí nghiệm trồng thử cho nên chúng tôi giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn và để cố gắng đặt vấn đề di thực được nhân sâm.

Nhân sâm (Radix ginseng hay Radix ginseng sylvestris) là rễ chế biến rồi phơi hay sấy khô của cây nhân sâm trồng hoặc mọc hoang. Có tác giả xác định hai loại nhân sâm như sau:

1. Nhân sâm mọc hoang: Panax ginseng C.A. Mey. forma sylvestre Chao et Shih.

2. Nhân sâm trồng: Panax ginseng C.A. Mey. forma sativum. Chao et Shih.

A. MÔ TẢ CÂY NHÂN SÂM

Cây nhân sâm là một cây sống lâu năm, cao chừng 0,60m. Rễ mẫm thành củ to.

Lá mọc vòng, có cuống dài, lá kép gồm nhiều lá chét mọc thành hình chân vịt. Nếu cây mới được một năm (nghĩa là sau khi gieo được 2 năm) thì cây chỉ có 1 lá với 3 lá chét, nếu cây nhân sâm được 2 năm cũng chỉ có 1 lá với 5 lá chét. Cây nhân sâm 3 năm có 2 lá kép, cây nhân sâm 4 năm có 3 lá kép, cây nhân sâm 5 năm trở lên có 4 đến 5 lá kép, tất cả đều có 5 lá chét (đặc biệt có thể có 6 lá chét) hình trứng, mép lá chét có răng cưa sấu.

Bắt đầu từ năm thứ ba trở đi, cây nhân sâm mới cho hoa, kết quả. Hoa xuất hiện vào mùa hạ. Cụm hoa hình tán mọc ở đầu cành, hoa màu xanh nhạt, 5 cánh hoa, 5 nhị, bầu hạ 2 núm. Quả mọng hơi dẹt to bằng hạt đậu xanh, khi chín có màu đỏ, trong chứa 2 hạt. Hạt cây sâm năm thứ 3 chưa tốt. Thường người ta bấm bỏ đi đợi cây được 4-5 năm mới để ra quả và lấy hạt làm giống.

B. PHÂN BỐ, THU HÁI VÀ CHẾ BIẾN

Cây nhân sâm mọc hoang và được trồng ở Trung Quốc, Triều Tiên, vùng Viễn Đông của Liên Xô cũ, còn được trồng ở Nhật Bản, Mỹ, nhưng nổi tiếng vẫn là sâm Triều Tiên và Trung Quốc.

Riêng hai tỉnh Liêu Ninh và Cát Lâm (miền Đông Bắc Trung Quốc) sản lượng hàng  năm lên tới 750.000kg.

Tại Triều Tiên, Khai Thành là nơi trồng nhiều nhân sâm nhất, đã có trên 200 năm kinh nghiệm. Việt Nam tuy đã có thí nghiệm trồng bằng hạt và mầm do các nước bạn Triều Tiên, Liên Xô cũ và Trung Quốc giúp nhưng chưa thành công.

Sau đây chúng tôi giới thiệu sơ lược cách trồng và chế biến nhân sâm của Khai Thành (Triều Tiên):

1. Chọn hạt giống:

   Chọn ở những cây sâm mọc khỏe, tốt đã mọc được 4 hoặc 5 năm (vùng Đông Bắc Trung Quốc chọn những cây đã được 5-6 năm) vì cây 3 năm chưa đủ khỏe cây, 6 năm vỏ hạt cứng quá khó nảy mầm.

2. Gieo hạt:

   Hạt thu hoạch tháng 8, cuối tháng 10-11 gieo hạt, tưới nước và để nằm dưới đất qua mùa đông có tuyết.

  Cuối tháng 4 đầu tháng 5 năm sau, hạt nảy mầm. Tỷ lệ nảy mầm đạt tới 47%. Trong thời gian cây lớn cần tưới đều giữ ẩm thích hợp.

3. Đánh cây con đi trồng:

   Có thể đánh vào mùa thu (cuối tháng 10 đến trung tuần tháng 11) hoặc vào mùa xuân (đầu tháng 3 đến đầu tháng 4) ngay trong năm đầu sau khi cây nảy mầm. Đánh đi trồng vào mùa xuân thì tốt hơn.

   Trong thời gian trồng cần che nắng cho nhân sâm, nên cho ánh nắng buổi sáng chiếu vào nhiều tránh nắng trưa và chiều.

   Phân bón dùng phân xanh và khô dầu, không bón thúc bằng phân bắc và nước tiểu.

4. Thu hoạch:

   Sau 6 năm, vào trung tuần tháng 9 và thượng tuần tháng 10 đào củ, chú ý tránh làm rễ bị đứt, không phơi gió, phơi nắng để giữ nguyên độ ẩm trong sâm. Sau đó chia loại sâm tốt để chế hồng sâm, loại kém để chế bạch sâm.

5. Chế biến nhân sâm:

   Trên thị trường có nhiều loại sâm do chế biến khách nhau. Ở đây chỉ giới thiệu cách chế biến hai loại sâm và bạch sâm của Triều Tiên.

   a) Hồng sâm: Chọn những củ sâm to nhất, nặng ít nhất 37g, rửa sạch đất từng củ một bằng bàn chải nhỏ, rửa ở dưới nước, để nguyên cả rễ, kể cả rễ nhỏ, rửa như vậy sẽ được củ sâm trắng ngà. Cho vào nồi hấp ở áp lực hơi nước cao 2 atmotphe từ 1 giờ 20 phút đến 1 giờ 30 phút. Nhiệt độ hấp 80-90o. Sau đó sấy khô ở nhiệt độ 60-700o (6-7 giờ) hoặc ở 50-60o (8-10 giờ) nên sấy khô hết sức mau.

   Sau khi sấy khô, dùng tay rứt các rễ con để riêng gọi là tu sâm, củ sâm còn lại giống như hình người (nếu không giống thì sửa cho giống) phơi ra nắng từ 7 đến 15 ngày (tùy theo sâm to hay nhỏ) là được. Sau đó chia hồng sâm thành hai cấp: Cấp trời (màu đẹp, dáng đều đặn, giống người), còn lại cấp đất. Cuối cùng đóng gói từng cân ta (600g) một. Loại tốt nhất 15 củ nặng 600g loại kém nhất 60 củ = 600g.

   b) Bạch sâm: Vì  sâm này khô và trắng. Những củ sâm không đủ tiêu chuẩn chế hồng sâm thì đem chế bạch sâm.

   Trước hết cắt bỏ rễ con, dùng dao tre cạo sạch vỏ mỏng, sau đó phơi nắng cho hơi khô, đem vào sửa thành hình người rồi lại phơi nắng cho khô hẳn. Thời gian phơi cả trước lẫn sau hết chừng 7 đến 15 ngày. Sau đó đóng gói như hồng sâm. Thường hồng sâm được đóng vào hòm gỗ, bạch sâm đóng vào hòm giấy.

   Gần đây, tại nhiều nước, nhân sâm đã được phát triển bằng nuôi cấy mô để đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn về nhân sâm.

C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Nhân sâm được nhiều người nghiên cứu từ lâu. Nhưng kết quả còn chưa đáp ứng được đòi hỏi của các nhà khoa học. Sau đây là một số kết quả:

1. Trong nhân sâm có loại saponin sterolic. Hỗn hợp saponin có tên là panaxozit trước đây gọi là panaquilon hay panakilon.

2. Chất glucozit hoặc hỗn hợp glucozit mang tên là panaxin cũng chưa được nghiên cứu sâu. Trước đây gọi là gensenin cũng là một loại saponin chưa tinh khiết lắm.

3. Ngoài ra còn có một tí tinh dầu 0,055% - 0,25% làm cho nhân sâm có mùi đặc biệt, trong đó chủ yếu là chất panaxen C15H24.

4. Các vitamin B1 và B2, các mendiataza.

5. Tro chừng 3-7% trong đó có chừng 53% axit photphoric.

6. Các tạp chất khác gồm nhựa và chất béo tổng số chừng 1,5%. Các axit béo gồm hỗn hợp axit panmitic, steric và linoleic. Hỗn hợp này mang tên axit panaxic.

7. Các chất khác gồm có phytosterin 0,029% - tinh bột chừng 20%, chất pectin 16-23% và đường 4%.

8. Mới đây người ta lại thấy trong nhân sâm có hàm lượng germanium cao.

D. TÁC DỤNG DƯỢC LÝ

Được nhiều người nghiên cứu và có rất nhiều tài liệu nói đến. Sau đây chúng tôi chỉ tóm tắt một số kết quả:

1. Tác dụng trên hệ thần kinh:

   Từ xưa, tại Trung Quốc người ta đã biết thí nghiệm tác dụng làm giảm mệt của nhân sâm. Ví dụ trong Bản thảo cương mục của Lý Thời Trân (thế kỷ thứ 16), có ghi cách thử nhân sâm như sau: "Cho 2 người cùng chạy, một người có ngậm miếng nhân sâm, một người không ngậm, sau khi chạy độ 3 đến 5 dặm người không ngậm nhân sâm sẽ thở mạnh còn người có ngậm nhân sâm vẫn thở như thường”.

   Trong các năm 1949-1951 tại Liên Xô cũ, Abramôva có thí nghiệm theo phương pháp cho chuột nhắt lội nước thì thấy nhân sâm có tác dụng làm chuột đỡ mệt.

   - Năm 1947 Lazarev đã nghiên cứu và kết luận rằng nhân sâm có tác dụng hưng phấn thần kinh trung ương; dùng với liều điều trị có thể làm đỡ mệt, tăng hiệu suất công tác, so với thuốc phenamin thì tốt hơn.

   - Năm 1955 Drake theo phương pháp của Zacuxov đã chứng minh liều điều trị của nhân sâm có khả năng rút ngắn thời kỳ phản xạ tiềm phục của thần kinh và làm mau sự chuyển động của thần kinh.

   Nhưng liều cao quá có thể gây hiện tượng quá trấn tĩnh (Chu Nhan - Chu Kim Hoàng, Trung Hoa y học tạp chí, 12-1956).

2. Tác dụng trên huyết áp và tim:

   Các nhà nghiên cứu Liên Xô cũ: Burkrat và Xakxopov (1947) và Kixêlev (1948-1959) đã nghiên cứu nước sắc và cồn nhân sâm, kết luận rằng tác dụng của dung dịch nước và dung dịch rượu nhân sâm như sau: Kixêlev dùng dung dịch 5%, 10% và 20% nhân sâm tiêm vào tĩnh mạch thỏ và mèo thấy tác dụng hạ huyết áp, nồng độ càng cao tác dụng ức chế trên tim càng mạnh, nhưng nếu nồng độ thấp thì lại co bóp tim mạch và số lần bóp càng tăng, do đó ông đã kết luận rằng nhân sâm có hai hướng tác dụng trên thần kinh thực vật: liều nhỏ có tác dụng như thần kinh giao cảm, liều lớn có tác dụng như thần kinh phế vị (nerf vague).

3. Tác dụng trên hô hấp:

   Năm 1947 Burkrat và Xakxopov đã báo cáo dùng 0,3-0,5ml dung dịch nhân sâm 20% tiêm vào tĩnh mạch mèo thấy nhân sâm hưng phấn hô hấp.

   Một số nhà nghiên cứu Nhật Bản và Trung Quốc trước đó đã tiêm vào tĩnh mạch thỏ chất ginsenin thấy liều nhỏ làm tăng hô hấp, liều cao có tác dụng ngược lại, nếu tiêm axit panaxic hay chất panaxen cũng thấy tác dụng như vậy.

   Tuy nhiên ở trên mới chỉ thấy tác dụng khi tiêm còn chưa thấy tài liệu nghiên cứu tác dụng của việc uống nhân sâm đối với hô hấp.

4. Tác dụng đối với chuyển hoá cơ bản:

   Năm 1922 hai tác giả Nhật Bản: Hà Bộ Thắng Mã và Nại Đằng Hệ Bình đã nghiên cứu tác dụng của bột nhân sâm và chất tan trong cồn của nhân sâm (uống và tiêm) đối với bệnh huyết đường quá cao nhân tạo trên thỏ, đều thấy có tác dụng rõ rệt làm hạ mức huyết đường xuống.

   Năm 1954 và 1956 một số tác giả Trung Quốc cũng xác nhận trong Trung Hoa nội khoa tạp chí và Trung Hoa y học tạp chí tác dụng hạ huyết đường của nhân sâm.

   Trên lâm sàng người ta đã thấy (Khâu Thần Ba, 1955) rằng nếu dùng nhân sâm chung với insulin thì có thể giảm bớt lượng insulin, thời gian hạ huyết đường được kéo dài hơn và chữa được bệnh đường tiện.

5. Tác dụng đối với sự sinh trưởng và phát dục của động vật (máu lạnh hoặc máu nóng, côn trùng):

   Cho uống hoặc tiêm thuốc chế bằng nhân sâm hoặc các chất lấy từ nhân sâm trên một số động vật so sánh với động vật không dùng nhân sâm, thấy trọng lượng con vật tăng lên, thời gian giao cấu của con vật kéo dài, hiện tượng tình dục xuất hiện rõ rệt.

6. Tác dụng đối với sức chống đỡ bệnh tật:

   Những thí nghiệm của Daugolnikov (1950-1952), Brekhman và Phruentov (1954-1957) và Abramov (1953) cho biết nhân sâm có tác dụng tăng sức đề kháng của động vật đối với tật bệnh.

7. Độc tính của nhân sâm:

   Kixêlev đã tiêm vào dưới da chuột nhắt 1ml dung dịch nhân sâm 20% thấy sau 10-12 giờ chuột chết với trạng thái "mất sắc". Nhưng cho uống thì độc tính rất ít.

E. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Nhân sâm là một vị thuốc cổ truyền trong đông y. Các sách cổ thường ghi nhân sâm bổ năm tạng (Tâm, Can, Tỳ, Phế, Thận) yêu tinh thần, định hồn phách, làm khỏi sợ hãi, trừ tà khí, sáng mắt, uống lâu nhẹ mình, tăng tuổi thọ, chữa các chứng đau ruột, dạ dày, nôn mửa.

Cách dùng trong nhân dân như sau:

   1. Sâm thái mỏng, cho vào miệng ngậm và nhấm từng ít một, nuốt nước và cả bã.

   2. Thái mỏng, cho vào ấm hay chén sứ. Thêm một tí nước đậy nắp. Đun cách thủy, uống nước. Sau đó lại thêm nước và đun cách thuỷ tiếp tục uống, làm như vậy cho đến khi hết mùi vị mới thôi. Ngày dùng 2-6g.

Theo tài liệu cổ: Nhân sâm vị ngọt, hơi đắng, tính ôn (lá có vị đắng, hơi ngọt); vào 2 kinh Tỳ và Phế. Có tác dụng đại bổ nguyên khí, ích huyết sinh tân, định thần, ích trí. Dùng chữa phế hư sinh ho suyễn, tỳ hư sinh tiết tả, vị hư sinh nôn mửa, bệnh lâu ngày khí hư, sợ hãi, tiêu khát. Những người bệnh có thực tà không dùng được.

Gần đây do các công trình nghiên cứu về nhân sâm đặc biệt của Liên Xô cũ, Trung Quốc, nhân sâm được tây y công nhận và sử dụng coi như thuốc tây.

Dược thư Liên Xô xuất bản lần thứ 9 năm 1961 công nhận nhân sâm là vị thuốc chính thức trong y học Liên Xô.

Có thể dùng dưới dạng thuốc sắc 5 hay 10% với liều 15-30ml một lần, ngày dùng 3 lần, hoặc dưới dạng cồn nhân sâm với liều 15 giọt một lần, ngày uống 3 lần.

Vài đơn thuốc có nhân sâm trong đông y:

   1. Độc sâm thang (đơn thuốc có một vị nhân sâm) chữa cơ thể quá suy nhược sau khi mất máu nhiều, thần kinh suy nhược: Nhân sâm 40g. Nước 400ml (2 bát) sắc còn 200ml (1 bát), cho uống từng ít một, không kể thời gian. Uống xong cần nằm yên.

   2. Sâm phụ thang - chữa những trường hợp mạch suy, kiệt, mồ hôi ra nhiều, chân tay lạnh: Nhân sâm 40g (có thể 20g), chế phụ tử 20g (có thể dùng 10g), sinh khương 3 nhát, táo đen 3 quả, nước 3 bát (600ml) sắc còn 200ml (1 bát) chia làm nhiều lần uống trong ngày.

Thái tử sâm, Pseudostellaria raphonorrhiza

Thái tử sâm - Pseudostellaria raphonorrhiza

Những vị thuốc dùng thay nhân sâm:

   Trên thị trường hiện nay có nhiều vị dùng lầm với tên nhân sâm. Ngoài các vị được giới thiệu kỹ ở sau như thổ cao ly sâm, hố chính sâm v.v... còn có vị thái tử sâm hay hài nhi sâm được vùng Giang Tô Trung Quốc dùng thay nhân sâm và cũng có khi đưa bán ở nước ta.

   Đó là rễ cây Pseudostellaria raphonorrhiza (Hemsl). Pax thuộc họ Cẩm chướng (Caryophyllaceae). Cây này là một loại cây cỏ nhỏ cao 7-15cm, chưa thấy ở nước ta. Thành phần hoá học và tác dụng dược lý chưa được nghiên cứu. Có người mới phát hiện trong thái tử sâm có fructoza.

   Dùng làm thuốc bổ, chữa trẻ con đổ mồ hôi trộm, kém ăn, với liều 8-12g một ngày.

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

focus Thủy tiên
05/05/2025 12:09 SA

- 水仙. Còn gọi là hoa thủy tiên. Tên khoa học Narcissus tazetta Linn. Thuộc họ Thủy tiên (Amaryllidaceae). Thủy tiên Narcissus do chữ Hy Lạp narkao là tê cóng, vì chỉ Narcissus thường gồm những cây có hương thơm, gây tình trạng sững sờ, tazetta do tiếng Ý ta...

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Ma hoàng - 麻黃. Còn gọi là thảo ma hoàng, xuyên ma hoàng sơn ma hoàng, mộc tặc ma hoàng, mộc ma hoàng, trung ma hoàng. Tên khoa học Ephedra sinica Stapf., Ephedra equisetina Bunge, Ephedra intermedia Schrenk et Mey. Thuộc họ Ma hoàng (Ephedraceae). Ma hoàng (Herba Ephedrae) là ngọn hay phần trên mặt đất của nhiều loài ma hoàng phơi hay sấy khô. Tên ma hoàng vì vị thuốc có vị ma (cay cay tê tê, không rõ rệt) màu vàng. Tên Ephedra do chữ Epi có nghĩa là trên, hedra có nghĩa là đất, ý nói là cây thuốc mọc trên đá; chữ sinica có nghĩa là cây nguồn gốc ở Trung Quốc; equisetina là một tặc ý nói có loài ma hoàng giống cây mộc tặc (cỏ tháp bút).
Mã thầy - 荸薺 (荸荠). Còn gọi là củ năn, bột tề. Tên khoa học Heleocharis plantaginea R. Br. Thuộc họ Cói (Cyperaceae).
Mã tiền - 馬錢 (马钱). Còn gọi là củ chi, sleng thom, sleng touch (Campuchia), kok toung ka (Lào), vomiquier fausse angusture, mắc sèn sứ (Thổ) co bên kho (Thái). Tên khoa học Strychnos nuxvomica L. Thuộc họ Mã tiền (Loganiaceae). Tên mã tiền dùng để chỉ nhiều cây khác nhau thuộc chi Strychnos cho những hạt giống như chiếc khuy áo lớn, và có chứa những ancaloit có tác dụng mạnh chủ yếu là strycnin và bruxin. Có cây là cây đứng, có cây là dây leo. Nhiều cây leo chưa được xác định tên chắc chắn, thường chỉ mới tạm xác định là Strychnos sp. Có khi cùng một loài nhưng nếu khai thác hạt người ta gọi là cây mã tiền, nếu khai thác vỏ người ta lại gọi là cây hoàng nàn. Tên Strychnos do chữ Hy Lạp có nghĩa là những cây có độc, nux có nghĩa là quả cứng, vomica nghĩa là gây nôn, ý nói Strychnos nuxvomica là một cây có độc, quả cứng gây nôn.
Mắc kẹn - 七葉樹 (七叶树). Còn gọi là bàm bàm, ma keyeng, may kho, marronier. Tên khoa học Aesculus sinenisis Bunge. Thuộc họ Bồ Hòn (Sapindaceae).
Mắc nưa - 柿油樹. Còn gọi là mặc nưa, mac leua (Cămpuchia). Tên khoa học Diospyros mollis Griff. Thuộc họ Thị (Ebenaceae).
Mạch ba góc - 蕎麥 (荞麦). Còn gọi là tam giác mạch, lúa mạch đen, kiều mạch, sèo (Lào Cai, Yên Bái). Tên khoa học Fagopyrum esculentum Moench. (Fagopyrum sagittatum Cilib). Thuộc họ Rau răm (Polygonaceae). Ta có thể dùng toàn cây nhưng chủ yếu là lá và hoa của mạch ba góc để làm nguyên liệu chiết rutin.
Mạch môn đông - 麥門冬. Còn có tên là mạch đông, cây lan tiên. Tên khoa học Ophiopogon japonicus Wall. Thuộc họ Hành tỏi (Liliaceae). Người ta dùng rễ củ phơi hay sấy khô (Radix Ophiopogoni) của cây mạch môn đông. Vì lá giống lá lúa mạch, về mùa đông lá vẫn xanh tươi nên gọi là mạch đông.
Mạch nha - 麥芽. Tên khoa học Maltum. Mạch nha chính thức là hạt lúa mạch Hordeum sativum Jess. var. vulgare Hack hoặc một loài Hordeum khác thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae) cho mọc mầm, rồi sấy khô ở nhiệt độ dưới 60 độ. Ở Việt Nam ta vì chưa có lúa mạch, vẫn dùng hạt thóc tẻ (thóc chiêm hay thóc mùa đều được) Oryza sativa L. var. utilissima cùng họ để ngâm cho nẩy mầm rồi phơi khô, gọi là cốc nha. Muốn có thóc nẩy mầm, chỉ cần đãi thóc sạch đất cát, ngâm nước cho ẩm, sau đó ủ kín, thỉnh thoảng tưới nước để giữ ẩm đều, sau vài ngày hạt thóc nảy mầm, khi nào một số mầm bắt đầu xanh thì lấy ra phơi nắng cho khô, để nguyên hoặc tán nhỏ, sãy hết trấu mà dùng.
Mai mực - 海螵鞘. Còn gọi là hải phiêu tiêu, mai cá mực, ô tặc cốt. Tên khoa học Sepia esculenta Hoyle, Sepiaandreana Steen-Strup. Thuộc họ Cá mực (Sepiidae). Ô tặc cốt - Os Sepiae là mai rửa sạch, phơi khô của con mực nang hay mực ván (Seppiaesculenta Hoyle) hoặc của con mực ống, mực cơm (Sepiidae) nhưng chủ yếu là mực nang hay mực ván vì mực cơm hay mực ống có mai nhỏ. Tên ô tặc vì theo cách sách cổ, con cá mực thích ăn thịt chim, thường giả chết nổi trên mặt nước, chim tưởng là xác chết, bay sà xuống để mổ, bị nó lôi xuống nước ăn thịt, ăn thịt nhiều quạ do đó thành tên vì ô là quạ, tặc là giặc, cốt là xương; ý nói xương của giặc đối với quạ. Tên hải phiêu tiêu vì vị thuốc giống tổ con bọ ngựa mà lại gặp ở ngoài bể (phiêu tiêu là tổ bọ ngựa).
Mâm xôi - 粗葉懸鉤子 (粗叶悬钩子). Còn gọi là đùm đũm. Tên khoa học Rubus alceaefolius Poir. (Rubus fimbriifeus Focke). Thuộc họ Hoa hồng (Rosaceae).
Màn kinh tử - 蔓荊子. Còn gọi là kinh tử, vạn kim tử, quan âm, thuốc kinh, thuốc ôn, đẹn ba lá. Tên khoa học Vitex trifoolia L. Thuộc họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae). Màn kinh tử (Fructus Viticis) là quả chín phơi hay sấy khô của cây quan âm hay cây màn kinh, còn gọi là cây thuốc ôn. Màn là mọc lan ra, kinh là gai. Thứ cây này mọc lan ra mặt đất, nên gọi tên như vậy.
Mần tưới - 澤蘭 (泽兰). Còn gọi là hương thảo, lan thảo, Ayapana du Tonkin. Tên khoa học Eupatorium staechadosmun Hance. Thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae).
Măng cụt - 山竺、山竹子. Còn gọi là sơn trúc tử, mangoustanier. Tên khoa học Garcinia mangostana L. (Mangostana garcinia Gaertn.). Thuộc họ Bứa Clusiaceae (Guttferae). Tuy mang tên sơn trúc tử tại Trung Quốc, nhưng Trung Quốc không có cây này, vẫn phải nhập từ nước ngoài vào.
Màng tang - 澄茄子. Còn gọi là tất trừng già. Tên khoa học Litsea cubeba (Lour.) Pers. Thuộc họ Long não (Lauraceae).
Mang tiêu - 芒硝. Còn gọi là phác tiêu, huyền minh phấn. Tên khoa học Mirabilita, Natrium Sulfuricum, Sal Glauberis. Mang tiêu (Natrium Sulfuricum, Sal Glauberis) là muối natri sunfat thiên nhiên tinh chế mà thành. Huyền minh phấn (Natrium Sulfuricum exciccatum) còn gọi là nguyên minh phấn, hay phong hóa tiêu là mang tiêu khử hết nước.
Mật động vật (đởm) Đông y và Tây y đều dùng mật động vật làm thuốc, nhưng Tây y chỉ hay dùng mật lợn, mật bò. Còn Đông y dùng mật của nhiều loài như mật gấu, mật dê, mật lợn, mật bò, mật trăn, mật rắn, mật gà, mật cá chép, .v.v.
Mật gấu - 熊膽 (熊胆). Còn gọi là hùng đởm. Tên khoa học Fel Ursi. Thuộc họ Gấu (Ursidae). Mật gấu (Fel Ursi) là túi mật phơi hay sấy khô của nhiều loài gấu Ursus sp. Ở Việt Nam, thường là loài gấu ngựa Selenarctos thibetanus G. Cuvier. có khoang như chữ V trắng ở ngực. Đôi khi có loài gấu chó hay gấu đen, gấu xám (hiếm hơn) Ursus arctos lisiotus Gray.
Mật lợn, mật bò - 豬膽, 牛膽 (猪胆, 牛胆). Mật lợn, mật bò có thể dùng tươi, nhưng vì khó uống và không để được lâu cho nên thường cô đặc thành cao đặc hay cao khô hoặc đem tinh chế thành cao mật bò, cao mật lợn tinh chế.
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]