Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

NGƯU HOÀNG - 牛黃

NGƯU HOÀNG, 牛黃

Ngưu hoàng - Calculus Bovis

Hiện ta dùng:

   1. Ngưu hoàng thiên nhiên = Calculus Bovis (Bezoar).

   2. Ngưu hoàng tổng hợp - Calculus Bovis artificialis (Bezoar artificialis).

Ngưu hoàng thiên nhiên là sạn mật hay sỏi mật của con trâu có bệnh Bubalus bubalis L. hoặc con bò - Bos taurus var. domesticus Gmelin có bệnh thuộc họ Trâu bò (Bovidae).

Vị ngưu hoàng ở nước ta có nhưng chưa biết khai thác nên vẫn phải nhập của Trung Quốc với giá 12.000đ một kg. Từ tháng 8 năm 1961, chúng tôi đã phát hiện và giới thiệu trong lớp dược liệu 8/61 rằng một số trâu bò ở nước ta cũng có ngưu hoàng. Trước đây, khi chế cao mật thấy những túi mật có sạn lại bỏ đi. Hiện nay rải rác đã có nơi thu thập ngưu hoàng.

A. CÁCH CHẾ NGƯU HOÀNG

Hiện nay vì mới phát hiện nên chưa có kinh nghiệm để phân biệt con trâu bò nào có ngưu hoàng: Những người mổ trâu bò ở Hà Nội nhận thấy trâu bò vùng Vĩnh Linh đưa ra thường hay có.

Theo các tài liệu những con trâu bò già, gầy yếu, mắt lờ đờ, khi đi đầu hay quay nghiêng, đứng hoặc nằm thường hay thở khò khè như bị hen thường là trâu bò có ngưu hoàng.

Tốt nhất là khi mổ trâu bò, lấy túi mật thì nắn túi và ống mật hễ thấy có cục rắn cứng thì nên sớm rạch túi mật ra, lọc qua rây, lấy mật riêng và ngưu hoàng riêng. Nếu để lâu, dịch mật ngấm vào ngưu hoàng sẽ làm ngưu hoàng bị đen, phẩm chất kém.

Sau khi lấy ngưu hoàng chú ý dùng vải mềm hay gạc sạch gạt bỏ các màng nhầy dính xung quanh, dùng thông thảo hoặc bấc đèn đăng tâm thảo (xem vị này: http://dotatloi.com/nhung-cay-thuoc-va-vi-thuoc-viet-nam/ket-qua-tra-cuu/bac-den) hoặc bông bọc lại, ngoài cùng bọc một lớp vải thưa, buộc cẩn thận.

Cho vào hộp kín trong có vôi cục chưa tôi hoặc gạo rang hay silicagien để hút ẩm. Chú ý hộp phải kín thì khả năng hút ẩm của vôi hay gạo rang mới thể hiện tốt. Nhất thiết không phơi nắng hay sấy lửa hoặc để ở chỗ có gió mạnh vì sức nóng ánh sáng mặt trời hoặc gió mạnh làm ngưu hoàng nứt vỡ, sẫm lại, phẩm chất sẽ kém. Mùa thu hoạch quanh năm.

Tùy theo trình độ kết sạn, ngưu hoàng to nhỏ không nhất định; lớn có thể bằng quả trứng gà, nhỏ bằng hòn cuội hoặc như viên sạn. Khi cắt ngang trông thấy như gồm nhiều lớp dính chặt vào nhau có màu vàng nâu hoặc nâu đỏ. Cần gói kín, để trong lọ màu dưới đáy có gạo rang hoặc vôi cục.

Ta nên chú ý khi khai thác vì nhu cầu trong nước hàng năm tuy chỉ chừng 20kg, nhưng trị giá tới 240.000đ, và lại ngay Trung Quốc là nơi ta vẫn nhập cảng vẫn phải nhập của châu Úc, Canada, và Ấn Độ.

B. THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Trong ngưu hoàng có axit cholic, cholesterol, ergosterol, axit béo, este phôtphoric, bilirubin, vitamin D, muối canxi, sắt, đồng v.v...

Trong ngưu hoàng của châu Úc, người ta còn lấy ra các loại carotenoit và các axit amin như alanin, glixin, torin, axit axpactic, acginin (leuxin) và methionin.

Trên cơ sở thành phần hoá học của ngưu hoàng thiên nhiên gần đây xưởng thuốc Thiên Tân Trung Quốc đã chế ra ngưu hoàng tổng hợp trị giá vẫn tới 6.000đ một kg bao gồm bilirubin 10g, cholesterol 7g, axit cholic 10g, muối vô cơ 1g, bilirubin chế từ mật lợn, từ óc bò và axit cholic ở gan bò hoặc mật bò.

C. TÁC DỤNG DƯỢC LÝ

Ngưu hoàng tổng hợp được bán dưới dạng bột màu cá vàng, mùi thơm như mùi mít chín, đựng trong lọ màu. Ngưu hoàng là một vị thuốc đã được ghi chép sử dụng từ lâu trong đông y. Ngay trong Thần nông bản thảo đã ghi chép là "vị thuốc chủ trị kinh giản, sốt hóa điên cuồng".

Những năm gần đây, được nghiên cứu nhiều. Sau đây là một số kết quả:

1. Tác dụng đối với trung khu thần kinh:

   a) Trong báo The Journal of Oriental medecine 33; (5) 1940, nhà bác học Nhật Bản đã báo cáo: cho chuột nhắt uống rượu ngưu hoàng với liều 5mg/10g thể trọng, mỗi ngày uống một lần, uống liên tục 4 đến 8 ngày, một giờ sau khi cho uống liều cuối cùng thì tiêm dưới da hoặc dầu long não (5-10mg/10g thể trọng) hoặc dung dịch cafein benzoat natri (6mg/10g thể trọng) hoặc picrotoxin (0,02mg/10g thể trọng) hoặc stricnin (0,002mg/20g thể trọng) để gây co quắp thì thấy ngưu hoàng có tác dụng ngăn trở sự hưng phấn của long não, cafein và picrotoxin, nhưng không có tác dụng đối với sự hưng phấn đi tới co quắp của stricnin. Nhưng, sau khi liên tục cho uống ngưu hoàng rồi tiêm dưới da cloranhydrat, hoặc uretan hoặc bacbital để ức chế trung khu thần kinh thì thấy ngưu hoàng có tác dụng giúp cho tác dụng trấn tĩnh được kéo dài.

   Ông còn chứng minh bằng thực nghiệm rằng tác dụng trấn tĩnh của ngưu hoàng chủ yếu là do axit cholic, còn muối canxi cũng hơi có tác dụng trấn tĩnh nhưng không phải là chất tác dụng chủ yếu.

   b) Năm 1956, Chu Nhan (Trung Quốc) đã báo cáo thấy ngưu hoàng có tác dụng bảo vệ chuột nhắt khỏi tác dụng cơ quắp gây nên bởi cocain và mophin.

2. Tác dụng đối với máu:

   a) Trong tạp chí Đông kinh y sự (Nhật Bản 1931) có báo cáo ngưu hoàng có tác dụng tăng hồng huyết cầu và huyết sắc tố. Trước hết, trích huyết thỏ để đi tới thiếu máu, sau đó cho uống ngưu hoàng để theo dõi sự khôi phục hồng cầu và huyết sắc tố.

   b) Trong tạp chí The Journal of Oriental medicine 33: (5) 1940, một tác giả Nhật Bản khác đã chứng minh lần nữa trên thực nghiệm tác dụng sinh sản hồng cầu và huyết sắc tố của ngưu hoàng và còn chứng minh rằng tác dụng đó chủ yếu do vitamin D, bilirubin và ecgosterol.

   Nhưng trong ngưu hoàng có axit cholic có tính chất của saponin làm giảm sức căng mặt ngoài cho nên nếu tiếp xúc trực tiếp với hồng cầu như tiêm mạch máu, có thể gây phá huyết.

3. Tác dụng đối với tim mạch:

   Do thành phần axit cholic của ngưu hoàng nên có tác dụng gần giống dương địa hoàng Digitalis.
Nhưng nếu tiêm lượng lớn ngưu hoàng vào tĩnh mạch con chó thì thấy tác dụng trực tiếp ức chế cơ tim, đưa đến hạ huyết áp, hô hấp tăng mạnh.

   Theo Chu Nhan (Trung Quốc) thì năm 1952 có tác giả nói ngưu hoàng uống vào làm mạnh tim, co mạch và đưa đến tăng huyết áp.

D. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Ngưu hoàng thường được dùng trong nhân dân làm thuốc trấn tĩnh và mạch tim trong các triệu chứng điên cuồng, sốt quá phát cuồng, co quắp, trẻ con bị kinh phong.

Thường uống dưới dạng bột hay phối hợp với các vị thuốc khác làm thành viên.

Có thể làm truỵ thai do đó sách cổ có ghi cấm dùng cho phụ nữ có thai. Liều dùng 0,3-0,6g.

Theo tài liệu cổ: Ngưu hoàng có vị đắng, tính bình, hơi có độc; vào 2 kinh Tâm và Can. Có tác dụng thanh tâm giải độc, chữa hồi hộp, khai đờm. Dùng trong các bệnh nhiệt quá phát cuồng, thần trí hôn mê, trúng phong bất tỉnh, cổ họng sưng đau, ung thư, đinh nhọt. Doanh phận không có nhiệt và phụ nữ có thai không dùng được.

Đơn thuốc có ngưu hoàng:

Chữa bệnh viêm não (encephalite B.): (Trung Hoa y học tạp chí 2/1956: 110 - 113). Còn dùng chữa sốt nóng, sốt quá nói mê, co quắp.

   Ngưu hoàng, uất kim (nghệ), tê giác, hoàng liên, hoàng cầm, sơn chi (dành dành), chu sa, hùng hoàng (As2S3) mỗi vị 40g, xạ hương, băng phiến mỗi vị 10g, trân châu 20g. Tất cả tán nhỏ, dùng mật viên thành viên, mỗi viên nặng 4g. Bảo quản trong viên sáp.

   Mỗi lần uống 1 viên. Bệnh nặng thể thực có thể uống thêm. Trong ngày có thể uống tới 3 viên. Trẻ con giảm liều xuống một nửa. Phụ nữ có thai không dùng được.

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

focus Miết giáp
23/06/2025 01:46 SA

- 鱉甲 (鳖甲). Còn gọi là mai con ba ba, thủy ngư xác, giáp ngư, miết xác. Tên khoa học Carapax Amydae.

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Thương truật - 蒼术 (苍术). Còn gọi là mao truật, xích truật, nam thương truật. Tên khoa học Atractylodes lancea (Thunb.) DC. (Atractylis lance Thunb.). Thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae).
Thủy tiên - 水仙. Còn gọi là hoa thủy tiên. Tên khoa học Narcissus tazetta Linn. Thuộc họ Thủy tiên (Amaryllidaceae). Thủy tiên Narcissus do chữ Hy Lạp narkao là tê cóng, vì chỉ Narcissus thường gồm những cây có hương thơm, gây tình trạng sững sờ, tazetta do tiếng Ý tazza nghĩa là chén nhỏ, nhắc lại hình dáng của tràng hoa thủy tiên giống như cái chén nhỏ. Huyền thoại còn kể rằng thần Narcises mê say vẻ đẹp của mình quá đáng, luôn mê mải ngắm bóng mình bên dòng nước và biến thành cây hoa thủy tiên.
Thuyền thuế - 蟬蛻 (蝉蜕). Còn có tên là thuyền thoái, thiền thoái, thiền xác, thiền thuế. Thuyền thuế là xác lột (Periostracum cicadae) của con ve sầu Cryptotympana pustulata Fabricius thuộc họ Ve sầu (Cicadae) khi đang lớn lên, thiền = con ve, thuế = xác.
Tía tô - 紫蘇 (紫苏). Còn gọi là tử tô, tử tô tử, tô ngạnh. Tên khoa học Perilla ocymoides L. [Perilla nankinensis (Lour.) Decne, Perilla frutescens (L.) Breit]. Thuộc họ Hoa môi Lamiaceae (Labiatae.). Ngoài công dụng làm gia vị, cây tía tô cho các vị thuốc say đây: (1) Tử tô tử (tô tử, hắc tô tử - Fructus Perillae) là quả chín phơi hay sấy khô (ta gọi nhầm là hạt) của cây tía tô. (2) Tử tô (Herba Perilae) là cành non có mang lá của cây tía tô phơi hay sấy khô. (3) Tử tô diệp – Folium Perillae là lá phơi hay sấy khô. (4) Tô ngạnh (Tử tô ngạnh - Caulis Perillae) là cành non hoặc cành già phơi hay sấy khô.
Tía tô dại - 山香. Còn gọi là é lớn tròng, tía tô giới ballote camphée. Tên khoa học Hyptis suaveolens (Linn). Poir. Thuộc họ Hoa môi (Lamiacae).
Tích dương - 鎖陽 (锁阳). Tên khoa học Caulis Cynomorii - Herba Cynomorii. Vị tích dương còn có tên địa mao cầu là thân thịt phơi hay sấy khô của cây tích dương - Cynomorium cocineum L. thuộc họ Tích dương (Cynomoriaceae).
Tiền hồ - 前胡. Còn gọi là quy nam (Lạng Sơn), tử hoa tiền hồ (Trung Quốc), thổ dương quy, sạ hương thái. Tên khoa học Peucedanum decursivum maxim, Angelica decursiva Franch et Savat. Thuộc họ Hoa tán (Umbelliferae). Tiền hồ (Radix Peucedani decursivi) là rễ phơi hay sấy khô của cây tiền hồ hay cây quy nam.
Tô hạp hương - 蘇合香 (苏合香). Tên khoa học Liquidambar orientalis Mill. Thuộc họ Sau sau (Hamamelidaceae). Ta dùng tô hạp hương hay tô hạp du (Styrax liquidus) là nhựa dầu lấy ở cây tô hạp.
Tơ mành - 風車藤 (风车藤). Còn có tên là mạng nhện, dây chỉ. Tên khoa học Hiptage madablota Gaertn, (Hiptage benghalensis (l.) Kurz.). Thuộc họ Măng rô (Malpighiaceae).
Tỏa dương - 蛇菰. Còn gọi là củ gió đất, củ ngọt núi, hoa đất, cu chó, cây không lá, xà cô. Tên khoa học Balanophora sp. Thuộc họ Gió đất (Balanophoraceae).
Tóc rối - 血餘 (血余). Còn gọi là huyết dư, đầu phát, nhân phát, loạn phát. Tên khoa học Crinis. Người xưa cho rằng tóc là do huyết thừa sinh ra, cho nên gọi tóc là huyết dư (dư là thừa). Tóc nói ở đây là tóc người - Homo sapiens L. thuộc họ Người (Homominidae). Tóc nam hay nữ đều dùng được. Người có thể dùng tóc rửa sạch phơi khô hay đem đốt lên gọi là huyết dư thán - Crinis carbonisatus còn gọi là loạn phát thán hay đầu phái thán hoặc nhân phát thán.
Tỏi - 大蒜. Tên khoa học Allium sativum L. Thuộc họ Hành tỏi (Liliaceae). Ta dùng củ tỏi (Bulbus Allii) là dò của cây tỏi mà ta vẫn dùng làm gia vị.
Tỏi đỏ - 紅蔥 (红葱). Còn gọi là tỏi lào, sâm cau, sâm đại hành, hành lào (Hòa Bình), tỏi mọi, kiệu đỏ, co nhọt (Lào). Tên khoa học Eleutherine subaphylla Gagnep. Thuộc họ La dơn (Iridaceae). Người ta dùng củ tươi hay phơi hoặc sấy khô của cây tỏi đỏ làm thuốc với tên khoa học Bulbus Eleutherinis subaphyllae.
Tỏi độc - 秋水仙. Còn gọi là colchique. Tên khoa học Colchicum autumnale L. Thuộc họ Hành tỏi (Liliaceae). Cây tỏi độc cho ta những vị thuốc sau đây: 1. Dò tỏi độc Tuber Colchici hay Bulbus Colchici là dò cây tỏi độc hái về phơi khô. 2. Hạt tỏi độc: Semen Colchici là hạt phơi hay sấy khô của cây tỏi độc. Ngoài cây tỏi độc - Colchicum autumnale L. ra, ta còn dùng dò và hạt của nhiều loài khác như Colchicum speciosum Stev... Colchicum variegatum L. hoặc cây Androcymbium gramineum Mac Bride cùng họ và cũng chứa hoạt chất colchixin.
Trà tiên - 羅勒疏柔毛變種 (罗勒疏柔毛变种). Còn gọi là é, é trắng, tiến thực. Tên khoa học Ocimum basilicum L. var. pilosum (Willd.) Benth. Thuộc họ Hoa môi Lamiaceae (Labiatae).
Trám - 橄欖 (橄榄). Còn gọi là cảm lãm, trám trắng, cà na, thanh quả, đêm ta lát (Cămpuchia). Tên khoa học Canarium album (Lour) Raensch (Canarium sinensis Rumph, Pimela alba Lour.). Thuộc họ Trám (Burseraceae). Thanh quả (Fructus Canarii) là quả trám trắng chín phơi hay sấy khô. Còn có tên là can thanh quả hay cảm lãm.
Trầm hương - 沉香. Còn gọi là kỳ nam, trà hương, gió bầu, bois d'aigle, bois d'aloes. Tên khoa học Aquilaria agallocha Roxb. (A. crassna Pierre). Thuộc họ Trầm (Thymelacaceae). Trầm hương (Lignum Aquilariae) là gỗ có nhiều điểm nhựa của cây trầm hương. Vì vị thuốc có mùi thơm, thả xuống nước chìm xuống do đó có tên gọi như vậy (trầm - chìm). Tên kỳ nam còn có tên kỳ nam hương thường dành cho loại trầm quý nhất. Giá đắt gấp 10-20 lần trầm hương.
Tràm và khuynh diệp Tên tràm và khuynh diệp hiện nay thường được dùng lẫn lộn để chỉ một số cây cho tinh dầu có mùi và công dụng gần giống nhau, hoạt chất căn bản cũng như nhau, nhưng tỷ lệ hoạt chất có khác nhau, do đó cần chú ý để tránh nhầm lẫn, cũng như khi cần giới thiệu với nước ngoài.
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]