Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

NẤM LINH CHI - 靈芝草 (灵芝草)

Còn gọi là linh chi thảo, nấm trường thọ, nấm lim, thuốc thần tiên.

Tên khoa học Ganoderma lucidum (Leyss ex. Fr.) Karst.

Thuộc họ Nấm gỗ (Ganodermataceae).

NẤM LINH CHI, 靈芝草, 灵芝草, linh chi thảo, nấm trường thọ, nấm lim, thuốc thần tiên, Ganoderma lucidum (Leyss ex. Fr.) Karst, họ Nấm gỗ, Ganodermataceae

Nấm linh chi - Ganoderma lucidum

NẤM LINH CHI, 靈芝草, 灵芝草, linh chi thảo, nấm trường thọ, nấm lim, thuốc thần tiên, Ganoderma lucidum (Leyss ex. Fr.) Karst, họ Nấm gỗ, Ganodermataceae

Nấm linh chi có cuống dài

Gần đây tại thị trường thuốc y học cổ truyền dân tộc, loại thuốc nhập nội, có xuất hiện một loại thuốc mới là nấm linh chi, nấm trường thọ (Longevity mushroom) dưới nhiều dạng.

Toàn tay nấm phơi hay sấy khô, cốm linh chi, dạng đông khô đóng thành nang (linh chi tinh), linh chi trộn nhân sâm, linh chi phấn hoa, ... với giá rất đắt.

Ngay tại Trung Quốc giá linh chi cũng đắt hơn cả nhân sâm. Vậy linh chi là gì? Chúng tôi xin giới thiệu sau đây một số hiểu biết hiện nay về nấm linh chi.

A. MÔ TẢ CÂY

Trước hết cần biết ngay rằng nấm linh chi không phải là vị thuốc mới phát hiện ít năm gần đây. Mà linh chi là một vị thuốc đã được nghi trong tập sách "Thần nông bản thảo" viết cách đây khoảng 2.000 năm.

Lý Thời Trân, tác giả bộ "Bản thảo cương mục" nổi tiếng thế giới (Lần đầu tiên in năm 1595), cũng đã giới thiệu vị linh chi với khoảng 2.000 từ và 6 loại linh chi mang mầu sắc và tên khác nhau: Thanh chi (linh chi mầu xanh), hồng chi (mầu hồng) còn gọi xích chi, đơn chi, hoàng chi (còn gọi là kim chi) mầu vàng, bạch chi (còn gọi ngọc chi) mầu trắng, hắc chi (còn gọi huyền chi) mầu đen, tử chi - linh chi mầu tím.

Tuy có ghi trong các sách cổ nhưng ít người được thấy, được sử dụng, nên linh chi từ lâu vẫn thuộc loại thuốc quý hiếm, chỉ có vua chúa, người giầu mới có để sử dụng.

Chỉ trong vòng 20 năm gần đây, có sự hợp tác giữa các nhà khoa học hiện đại với các lương y có kinh nghiệm, bí mật của nấm linh chi mới dần dần được sáng tỏ, nhưng còn rất nhiều vấn đề chưa có thể kết luận dứt khoát. Cần phải sử dụng và tiếp tục nghiên cứu tìm hiểu kinh nghiệm của người xưa.

Về thực vật, người ta xác định nấm linh chi không phải một loại cỏ, mà là một loại nấm hóa gỗ có cuống dài hoặc ngắn, mũ nấm có dạng hình thận, có dạng hình tròn hay hình quạt. Cuống thường cắm không ở giữa mũ nấm mà cắm lệch sang một phía mũ. Hình trụ tròn hay dẹt có thể phân nhánh cuống và cuống có mầu khác nhau tùy theo loài, loài đỏ thay đổi từ nâu đến đỏ vàng, đỏ cam, mặt trêen bóng loáng như đánh vécni, trên mặt mũ có những vân đồng tâm.

Thụ tầng mầu trắng ngà, khi già ngả mầu nâu vàng, mang nhiều lỗ nhỏ li ti là các ống thụ tầng mang bào tử. Bào tử loài xích chi hình trứng, được bao bọc bởi 2 lớp màng, màng ngoài nhẵn, không mầu, màng trong mầu gỉ sắt, lỗ nẩy mầm có hình gai nhọn.

Toàn nấm gồm những sợi nấm không mầu, trong sáng, đường kính 1-3mm, có phân nhánh.

Tên khoa học được xác định là Ganoderma lucidum (Leyss. ex. Fr.) Karst. Nhưng có tác giả lại dành tên này cho linh chi nói chung, còn loại linh chi tím được xác định là Ganoderma japonnicum (Fr) Lloyd. Tuy nhiên theo như kinh nghiệm xưa, tất cả các loài linh chi mầu sắc khác nhau đều được sử dụng, nhưng với những tính chất và tác dụng khác nhau. Cho nên đây cũng là một vấn đề chúng ta cần chú ý.

B. PHÂN BỐ, THU HÁI VÀ CHẾ BIẾN

Linh chi thường thấy mọc hoang dại ở các vùng núi cao lạnh ở một số tỉnh của Trung Quốc( Tứ xuyên, Quảng Đông, Quảng Tây...).

Gần đây, trên cơ sở những giống cây hoang dại người ta đã tổ chức trồng theo qui mô công nghiệm để đáp ứng nhu cầu dùng trong nước và xuất khẩu. Ngoài Trung Quốc, Nhật Bản cũng đã tiến hành trồng nhưng khí hậu không thuận tiện như Trung Quốc.

Ở nước ta, một số cơ sở đã bắt đầu trồng nấm linh chi để dùng trong nước và xuất khẩu.

Người ta thu hoạch nấm, phơi sấy khô rồi sử dụng bào chế các dạng bột, thuốc nước ngọt hay đông khô...

C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Mặc dầu mới được đưa vào sử dụng rộng rãi ở Trung Quốc vào 20 năm gần đây, nhưng nhiều viện nghiên cứu thuộc các tỉnh khác nhau ở Trung Quốc đã nghiên cứu nhưng cũng chưa tìm được hoạt chất.

Chúng tôi kê sau đây kết quả nghiên cứu của một số cơ sở:

   Viện nghiên cứu tỉnh Quảng Đông nghiên cứu thành phần hóa học của nấm linh chi mọc hoang dại thấy: Nước 12-13%, lignin 13-14%, hợp chất có N 1,6-2,1%, hợp chất phenol 0,08-0,1%, tro 0,022%, xelluloza 54-56%, chất béo 1,9-2%, chất khử 4-5%, hợp chất steroit 0,14-0,16%. Có tài liệu cho biết trong nấm linh chi có 0,3-0,4 % ergosterol (C28H44O).

   Viện nghiên cứu kháng sinh Tứ Xuyên tìm thấy axit amin, protein, saponin, steroit.

   Học viện y học Bắc Kinh phát hiện đường khử và đường béo, axit amin, dầu béo.

   Theo những công trình nghiên cứu mới nhất của Viện nghiên cứu linh chi hoang dại của toàn Trung Quốc thì trong hỗn hợp 6 loại linh chi có hàm lượng germanium cao hơn lượng germanium có trong nhân sâm từ 5 đến 8 lần. Germanium giúp khí huyết lưu thông, các tế bào hấp thu oxy tốt hơn. Lượng polysacarit cao có trong linh chi tăng cường sự miễn dịch của cơ thể, làm mạnh gan, cô lập và diệt các tế bào ung thư. Axit ganoderic có tác dụng chống dị ứng và chống viêm.

D. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Tính chất và tác dụng của nấm linh chi theo Thần nông bản thảo và Bản thảo cương mục như sau:

   - Thanh chi tính bình, không độc chủ trị sáng mắt, bổ can khí, an thần, tăng trí nhớ, cường khí, chữa viêm gan cấp và mãn tính.

   - Hồng chi (xích chi, đơn chi) vị đắng, tính bình, không độc, tăng trí nhớ, chữa bệnh thuộc huyết và thần kinh tim.

   - Hoàng chi (kim chi) vị ngọt, tính bình, không độc, làm mạnh hệ thống miễn dịch.

   - Hắc chi (huyền chi) vị mặn, tính bình, không độc, chủ trị bí tiểu tiện, sỏi thận, bệnh ở cơ quan bài tiết.

   - Bạch chi (ngọc chi) vị cay, tính bình, không độc, chủ trị hen, ích phế khí.

   - Tử chi (linh chi tím) vị ngọt, tính ôn, không có độc, chủ trị đau nhức khớp xương, gân cốt.

Nói tóm lại dùng 6 loại linh chi lâu ngày sẽ giúp cho nhẹ người, tăng tuổi thọ.

Ứng dụng trên lâm sàng, theo dõi bởi những thầy thuốc YHKH tại một số bệnh viện, những thầy thuốc của YHKH Trung Quốc đã đi đến kết luận rằng nấm linh chi có tác dụng trên một số bệnh như đau thắt cơ tim, bệnh ở mạch vành của tim, huyết áp không ổn định, khi thấp khi cao, viêm phế quản, hen, thấp khớp, viêm gan mãn, bệnh phụ nữ vào thời kỳ mãn kinh, bệnh đường tiêu hóa, giúp thông minh và trí nhớ...

Cách và liều dùng đơn giản nhất là dùng toàn nấm linh chi đã phơi sấy khô, thái mỏng hoặc tán thành bột đun nước sôi kỹ (sôi 15-30 phút) lấy nước uống trong ngày. Liều dùng mỗi ngày 2-5g nấm linh chi. Nước sắc nấm linh chi có mùi thơm, vị hơi đắng, có thể thêm đường hay mật ong vào cho dễ uống.

Nhiều người còn mua nấm linh chi khô về nấu canh, nấu súp làm món ăn bổ cao cấp, có khi cùng nấu với thịt, một số vị thuốc bổ khác.

Để tiện cho người sử dụng, nhiều xưởng thuốc ở Trung Quốc đã chế nấm linh chi thành nhiều dạng thuốc như viên linh chi, thuốc nước ngọt có linh chi, nước sắc linh chi đông khô đóng thành nang, mỗi nang 300-500mg đông khô nấm linh chi. Với liều dùng 1-2 nang một ngày. Dùng nước nóng để uống thuốc. Có loại trà nhân sâm để phối hợp với linh chi.

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

focus Tầm sét
12/06/2025 08:46 CH

- 藤商陸 (藤商陆). Còn gọi là khoai xiêm, bìm bìm xẻ ngón, kantram theari (Cămpuchia). Tên khoa học Ipomoea digitata Lin. Thuộc họ Bìm bìm Covolvulaceae.

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Cây ráy - 海芋. Còn gọi là cây ráy dại, dã vu. Tên khoa học Alocasia odora (Roxb) C. Koch. (Colocasia macrorhiza Schott). Thuộc họ Ráy (Araceae).
Cây rùm nao - 粗糠柴. Còn gọi là thô khang sài, kamala, camala, mọt. Tên khoa học Mallotus philippinensis (Lam.) Muell. Arg. Thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae).
Cây sầu đâu rừng - 鴉膽子. Còn gọi là cây sầu đâu cứt chuột, hạt khổ sâm, khổ luyện tử, nha đảm tử, chù mền, san đực (Sầm Sơn), cứt cò (Vĩnh Linh), bạt bỉnh (Nghệ An). Tên khoa học Brucea javanica (L.) Merr. (Brucea sumatrana Roxb.). Thuộc họ Thanh thất (Simarubaceae). Cây sầu đâu rừng cho vị nha đảm tử (Fructus Bruceae hay Brucea hoặc Semen Bruceae) còn gọi là khổ luyện tử hay khổ sâm hay quả xoan đâu rừng là quả khô của cây sầu đâu rừng. Chớ nhầm quả này với quả xoan Melia azedarach L. thuộc họ Xoan (Meliaceae) người ta lấy gỗ làm nhà, vỏ rễ để trị giun, người ta cũng gọi quả xoan là khổ luyện tử (xem cây xoan ở mục các vị thuốc chữa giun sán).
Cây si - 垂葉榕 (垂叶榕). Còn gọi là cây xi, chrey pren, chrey krem, andak neak (Cămpuchia), bo nu xe (Phan Rang). Tên khoa học Ficus benjamina L. Thuộc họ Dâu tằm (Moraceae).
Cây sơn - 野漆樹 (野漆树). Còn gọi là tất thụ (Trung Quốc), arbre à laque (Pháp). Tên khoa học Rhus succedanea Linné - Rhus vernicifera D. C. Thuộc họ Đào lộn hột (Anacardiaceae). Cây sơn ngoài công dụng là một cây công nghiệp vì cho chất sơn, còn cho một vị thuốc mang tên can tất (can là khô, tất là sơn vì sơn để lâu ngày khô kiệt rắn lại dùng làm thuốc).
Cây sóng rắn Còn gọi là sóng rận, sóng rắn nhiều lá. Tên khoa học Albizzia myriophylla Benth. Thuộc họ Trinh nữ (Mimosaceae). Từ sau ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng, ở nhiều tỉnh phía Nam người ta dùng cây này thay vị cam thảo.
Cây sữa - 糖膠樹 (糖胶树). Còn có tên là mùa cua, mò cua (Nam Bộ và nam Trung Bộ), tinpét (Viênta nin), popeal-khê (Cămpuchia). Tên khoa học Alstonia scholaris (L.) R. Br. (Echites scholaris L.). Thuộc họ Trúc đào (Apocynaceae). Chú thích về tên: Cây sữa vì loài cây có chất nhựa mủ trắng như sữa. Tên Alssonia scholaris vì gỗ cây này rất mịn, nhỏ, tại các trường học ở Ấn Độ dùng làm bảng viết cho học trò (scholaris là trường học). Người ta dùng vỏ cây phơi hay sấy khô làm thuốc.
Cây sui - 箭毒木. Còn gọi là cây thuốc bắn, nỗ tiễn tử, nong (Lào, vùng Viêntian). Tên khoa học Antiaris toxicaria Lesch., (A. innoxia Blume, Antiaris saccidoin Dalz.). Thuộc họ Dâu tằm (Moraceae). Cây có chất độc thường dùng chế tên thuốc độc, cần hết sức cẩn thận.
Cây sung - 優曇 (优昙). Còn gọi là lo va (Campuchia). Tên khoa học Ficus glomerata Roxb. var. chittagonga (Miq.) King (Ficus chittagonga Miq., C. mollis Miq.). Thuộc họ Dâu tằm (Moraceae). Ta dùng nhựa cây sung làm thuốc.
Cây sừng dê - 羊角拗. Còn gọi là cây sừng trâu, dương giác nữa, dương giác ảo, hoa độc mao ư hoa tử, cây sừng bò. Tên khoa học Strophanthus divaricatus (Lour.) Hook. et Arn, (Strophanthus divergens Graham, Penploca divaricata Spreng). Thuộc họ Trúc đào (Apocynaceae). Người ta dùng hạt phơi hay sấy khô của quả sừng dê đã chín gọi là Semen Strophan thidi divaricati.
Cây tam thất - 三七. Còn có tên kim bất hoán, nhân sâm tam thất, sâm tam thất. Tên khoa học Panax pseudo-ginseng Wall. (Panax repens Maxim.). Thuộc họ Ngũ gia bì (Araliaceae).Tam thất (Radix psendo-ginseng) là rễ phơi khô của cây tam thất. Tên kim bất hoán (vàng không đổi) có nghĩa là vị thuốc rất quý, vàng không đổi được. Tên tam thất có nhiều cách giải thích: Trong sách "Bản thảo cương mục" ghi vì cây có 3 lá ở bên trái, 4 lá ở bên phải (?) do đó có tên tam thất. Nhưng có người lại nói "tam" = ba, có ý nói từ lúc nói gieo đến lúc ra hoa phải 3 năm; "thất" = bảy, ý nói từ lúc gieo đến khi thu hoạch rễ bán được phải mất 7 năm. Có người lại nói vì lá tam thất có từ 3 đến 7 lá chét.
Cây thạch lựu - 石榴. Còn có tên gọi là bạch lựu, tháp lựu, lựu chùa Tháp. Tên khoa học Punica granatum L. Thuộc họ Lựu (Punicaceae). Ta dùng vỏ thân, vỏ cành, vỏ rễ phơi hay sấy khô (Cortex Granati) hay có khi dùng vỏ quả lựu phơi hay sấy khô (Pericarpium Granati). Vỏ, thân và rễ lựu có độc, dùng phải cẩn thận.
Cây thông thảo - 通草. Còn có tên là cây thông thoát. Tên khoa học Tetrapanax papyrifera (Hook) Koch (Aralia papyrifera Hook.). Thuộc họ Ngũ gia bì (Araliaceae). Thông thảo (Medulla Tetrapanacis) là lõi phơi hay sấy khô của thân cây thông thảo.
Cây thông thiên - 黃花夾竹桃. Còn gọi là hoàng hoa giáp trúc đào, laurier jaune, -noix de serpent, yellow oleander, bois à lait. Tên khoa học Thevetia neriifolia Juss. (Cerbera thevetia L., Cerbera peruviana Pers). Thuộc họ Trúc đào (Apocynaceae).
Cây thùn mũn Còn gọi là cây chua meo (tên ở Lạng Giang, Bắc Giang), cây phi tử, cây chua ngút - vốn vén, tấm cùi (Thổ), xốm mun (Thái). Tên khoa học Embelia ribes Burn. Thuộc họ Đơn nem (Myrsinaceae). Người ta dùng quả phơi hay sấy khô của cây thùn mũn.
Cây thuốc phiện - 罂粟. Còn có tên là a phù dung, anh tử túc, a phiến, túc xác, anh túc xác. Tên khoa học Papaver somniferum L. Thuộc họ Thuốc phiện (Papaveraceae). Thuốc độc loại gây nghiện. Dùng cho trẻ con phải cẩn thận theo chỉ dẫn của thầy thuốc. Anh túc xác (Fructus Papaveris deseminatus) còn có tên túc xác là quả thuốc phiện sau khi đã lấy hạt và nhựa rồi phơi hay sấy khô.
Cây tô mộc - 蘇木. Còn có tên là cây gỗ vang, cây vang nhuộm, cây tô phượng. Tên khoa học Caesalpinia sappan L.. Thuộc họ Vang (Caesalpiniaceae). Tô mộc (Lignum Caesalpiniae sappan) là gỗ phơi khô của cây gỗ vang hay cây tô mộc (vì vị thuốc sản xuất ở Tô Phượng, "Tô" là Tô Phượng, "mộc" là gỗ).
Cây trắc bách diệp - 側柏葉 (侧柏叶). Còn có tên là bá tử nhân. Tên khoa học Thuja orientalis L. (Biota orientalis Endl.). Thuộc họ Trắc bách (Cupressaceae). Ta dùng cành và lá phơi hay sấy khô (Folium et Ramulus Biotae) của cây trắc bách diệp. Cây này còn cho vị thuốc bá tử nhân (Semen Thujae orientalis) là nhân phơi hay sấy khô của trắc bách diệp.
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]