Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

NA - 番荔枝

Còn gọi là sa lê, mãng cầu, mãng cầu giai, mãng cầu ta, phan lệ chi.

Tên khoa học Annona squamosa L.

Thuộc họ Na (Annonaceae).

NA, 番荔枝, sa lê, mãng cầu, mãng cầu giai, mãng cầu ta, phan lệ chi, Annona squamosa L., họ Na, Annonaceae

Na - Annona squamosa

Cây na cho ta các bộ phận sau đây dùng làm thuốc: Lá, hạt và quả.

A. MÔ TẢ CÂY

Na là một thứ cây nhỡ cao 2-6m. Thân tròn, vỏ nháp, mang nhiều cành.

Lá mọc so le, hình bầu dục dài 7-10cm, rộng 3-4cm.

Hoa đơn độc nở vào tháng 3-4, cánh hoa màu mỡ gà, thường mọc đối diện với lá. Nhị nhiều, chỉ nhị rộng, chỉ hơi hẹp hơn bao phấn một chút. Nhiều lá noãn mang 1 noãn.

Quả kép dạng quả mọng màu xanh lục, nhạt, gồm nhiều múi, mỗi múi là một phân quả. Thịt quả trắng mềm, ngọt và thơm. Mùa quả từ tháng 8-11.

B. PHÂN BỐ, THU HÁI VÀ CHẾ BIẾN

Na được trồng ở khắp nơi trong nước ta, nhiều và ngon nhất là giống na dai.

Trồng na cần chọn nơi đất cao, nhiều phân, mát, thấm nước. Cần chọn những quả to nhất, thật chín, bóc vỏ, để nguyên cả múi và hột đem ươm, như vậy cây giống sẽ lâu cỗi và cho quả cũng ngon như cây đã cho giống. Khi cây ươm đã cao 40-50cm thì đem trồng. Đầu mùa mưa, đất dọn sẵn, đào lỗ sâu 30cm, mỗi lỗ cách nhau 2mx2m; cho chừng 2kg phân chuồng.

Cây trồng xong ít phải trông nom, chỉ cần làm cỏ xung quanh và tỉa bớt cành khô. Từ năm thứ 4 trở đi mới có nhiều quả; khi ấy, hằng năm chỉ cần bón 5-10kg phân. Nếu thấy cây cho nhiều quả nhỏ thì đầu mùa mưa nên cắt bớt những cành cách mặt đất chừng 1m, cây sẽ cho nhiều cành non và nhiều quả hơn.

Cây na mau cỗi, sau 7-8 năm nên đẵn đi trồng lại.

C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Trong lá có một ancaloit vô định hình, không có glucozit.

Trong hạt có chứa chừng 39,5-42% dầu, trong đó các axit béo là những axit myristic, panmitic, stearic, arachidic, hexadecanoic, và oleic.

Trong hạt na có một ancaloit vô định hình gọi là anonain C17H15O2N độ chảy 122-123o α20D = -52o (CHCl3). Chất độc trong hạt na đã được xác định (Proced. 39 th Indian Sci. Congr. Part III ,abstr., 1952, trang 105).

Năm 1947, Harper S.H., C.Potter và E.M.Gillham (1947. Ann. appl. Biol. G. Br. 34: 104) đã chiết được từ hạt và rễ na những chất độc và cho rằng đó là các glyxerit và các axit có phân tử lớn. Các tác giả cũng đã nghiên cứu độ độc của những chất đó trên nhiều loài sâu bọ khác nhau.

Trong quả na có 72% glucoza, 14,52% sacaroza, 1,73% tinh bột, 2,7% protit.

D. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Ngoài công dụng cho quả để ăn, các bộ phận khác của cây na chỉ mới được dùng trong phạm vi nhân dân, vì chưa có một nghiên cứu về tác dụng dược lý.

Lá na được nhân dân dùng chữa sốt rét: Chọn các lá không bị sâu, rửa sạch vò lấy nước uống tươi hoặc sắc lấy nước mà uống. Liều dùng: Người lớn 20 lá, trẻ con 10 lá, giã nhỏ, thêm ít nước lọc vào vắt lấy nước uống 2 giờ trước khi lên cơn sốt. Ngày chỉ dùng một liều, thường chỉ cần uống 3-4 ngày là hết.

Hạt na tán nhỏ dùng trừ chấy rận: Giã nhỏ, nấu nước gội đầu hay giặt quần áo. Chú ý khi gội đầu cần tránh đừng để hạt na hay nước hạt na bắn vào mắt. Nhân hạt na rất độc, chỉ cần nhấm một ít đã thấy khó chịu nhưng khi ăn na vô ý nuốt vào không làm sao là do lớp vỏ cứng che chở không cho nhân tác dụng. Có thể ngâm hạt vào rượu, rồi dùng rượu mà vò đầu hoặc nhỏ vào tóc. Vẫn cần tránh dây thuốc vào mắt.

Quả na điếc (quả na bị một giống nấm làm hỏng, tự nhiên có màu đỏ tím rồi rụng) nhân dân hay dùng quả na này để giã nhỏ đắp lên vú bị sưng.

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

focus Mật ong
17/06/2025 01:59 SA

- 蜂蜜. Còn gọi là bách hoa tinh, bách hoa cao, phong đường, phong mật. Tên khoa học mel.

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Găng Còn gọi là găng trắng, lovieng (Cămpuchia). Tên khoa học Randia tomentosa (Blum. ex. DC.) Hookf. (Gardenia tomentosa Wall). Thuộc họ Cà phê (Rubiaceae).
Găng tu hú - 山石榴. Còn gọi là găng trâu, mây nghiêng pa (Lào). Tên khoa học Randia dumetorum Benth. Thuộc họ Cà phê (Rubiaceae).
Giổi Còn gọi là hạt giổi, cây giổi. Tên khoa học Talauma gioi Chev. Thuộc họ Ngọc lan (Magnoliaceae).
Gối hạc - 火筒樹 (火筒树). Còn gọi là kim lê, bí dại, phỉ tử, mũn, mạy chia (Thổ). Tên khoa học Leea rubra Blume. Thuộc họ Gối hạc (Leeaceae).
Gừng - 薑 (姜). Còn gọi là khương, sinh khương, can khương. Tên khoa học Zingiber offcinale Rosc. Thuộc họ Gừng (Zingiberaceae). Khương (Rhizoma Zingiberis) là thân rễ của cây gừng tươi hoặc khô. Tùy theo tươi hay khô, vị thuốc mang tên khác nhau: Sinh khương là củ (thân rễ) tươi; Can khương là thân rễ phơi khô.
Gừng dại - 野薑 (野姜). Còn gọi là Zơrơng (Bình Định). Tên khoa học Zingiber cassumunar Roxb. Thuộc họ Gừng (Zingiberaceae).
Gừng gió - 紅球薑 (红球姜). Còn gọi là riềng gió, ngải xanh, ngải mặt trời, riềng dại, khuhet phtu, prateal vong atit (Cămpuchia), gingembre feu (Pháp), phong khương (Trung Quốc). Tên khoa học Zingiber zermbet Sm. Thuộc họ gừng (Zingiberaceae).
Hạ khô thảo - 夏枯草. Tên khoa học Brunella (Prunella) vulgaris L.. Thuộc họ Hoa môi (Lamiaceae). Ta dùng cụm hoa và quả phơi hay sấy khô (Flos Brunellae cum Frunctu) của cây hạ khô thảo. Theo người xưa, cây này sau ngày hạ chí (mùa Hạ) thì khô héo nên gọi là hạ khô thảo (trên thực tế ở nước ta, mùa Hạ cây vẫn tươi tốt).
Hà thủ ô - 何首烏 (何首乌). Hà thủ ô được coi là một vị thuốc bổ đông y có khả năng làm người già hóa trẻ, tóc bạc hóa đen. Nhưng ở nước ta có hai vị mang tên là hà thủ ô: (1) Hà thủ ô đỏ là vị đúng, được Trung Quốc, Nhật Bản coi là vị chính thức; (2) Hà thủ ô trắng thường coi là nam hà thủ ô. Chúng tôi giới thiệu cả hai vị.
Hà thủ ô đỏ - 何首烏 (何首乌). Còn gọi là thủ ô, giao đằng, dạ hợp, địa tinh, khua lình (Thái), măn đăng tua lình (Lào - Sầm nưa), mằn năng ón (Thổ). Tên khoa học Polygonum multiflorum Thunb. Fallopia multìlora, (Pteuropterus cordatus Turcz). Thuộc họ Rau răm (Polygonaceae). Hà thủ ô đỏ (Radix Polygoni multiflori) là rễ củ phơi khô của cây hà thủ ô.
Hà thủ ô trắng - 白首烏 (白首乌). Còn có tên là hà thủ ô nam, bạch hà thủ ô, củ vú bò, dây sữa bò, dây mốc, cây sừng bò cây đa lông, khâu cần cà (Thổ), khâu nước (Lạng Sơn), mã liên an, mã lìn ón, khua mak tang ning (Lào), khua khao (Luang Prabang, chừa ma sìn (Thái). Tên khoa học Streptocaulon juventas (Lour) Merr. (Apocynum juventas Lour., Tylophora juventas Woodf.). Thuộc họ Thiên lý (Asclepiadaceae).
Hải mã - 海馬 (海马). Còn có tên là cá ngựa, hải long, thủy mã. Tên khoa học Hippocamphus sp. Hải mã (Hippocampus) là toàn con cá ngựa phơi hay sấy khô.
Hàn the - 異葉山綠豆 (异叶山绿豆). Tên khoa học Desmodium heterophyllum (Willd.) DC. Thuộc họ Cánh bướm Fabaceae (Papilionaceae).
Hành - 葱白. Còn gọi là hành hoa, đại thông, thông bạch, tứ quý thông, hom búa (Thái), thái bá, lộc thai, hoa sự thảo, khtim (Campuchia), ciboule, cive. Tên khoa học Allium fistulosum L. Thuộc họ Hành tỏi (Liliaceae). Thông là rỗng, bạch là trắng; vì dọc cây hành (lá) thì rỗng, dò hành ("củ") có màu trắng, do đó có tên này.
Hành biển - 海蔥. Tên khoa học Scilla maritima L. (Urginea scilla Steinh., Urginea maritima (L.) Baker). Thuộc họ Hành tỏi (Liliaceae). Tên Scilla do chữ Hy lạp Skilla là tên một giống hành ở châu Âu. Urginea do chữ la tinh Urgere có nghĩa là dẹt vì hạt cây này dẹt. Maritima chữ la tinh có nghĩa là biển. Vì cây mọc ở bờ biển. Ta dùng dò thái nhỏ phơi hay sấy khô của cây hành biển với tên Bulbus Scillae. Hành biển là một vị thuốc hiện còn phải nhập; từ năm 1958 chúng tôi đã di thực thành công cây hành biển từ giống lấy ở miền Nam Liên Xô về nhưng chưa phát triển.
Hạt bí ngô - 南瓜子. Hạt bí ngô còn có tên là hạt bí đỏ, má ứ (Thái), nam qua tử (Semen Cucurbitae), là hạt của nhiều loại bí như bí ngô (Cucurbita pepo L.), bí rợ (Cucurbita moschata Duch), .v.v. đều thuộc họ Bí (Cucurbitaceae). Hạt bí ngô thường được nhân dân rang ăn vào những dịp liên hoan, dịp tết, .v.v. Tác dụng chữa sán tuy không mạnh bằng dương xỉ đực (Aspidium filix-mas Roth.) nhưng không gây độc đối với cơ thể.
Hạt bông - 棉花子. Hạt bông nói đây là hạt của cây bông cho ta sợi để dệt vải. Hạt bông sau khi đã lấy sợi đi rồi, trước khi người ta đổ bỏ đi, gần đây người ta đã dùng ép lấy dầu để thắp và nấu xà phòng hoặc để ăn sau khi đã loại chất gossypola đi rồi.
Hạt gấc - 木鱉子 (木鳖子). Còn gọi là mộc tất tử, thổ mộc miết, mộc biệt tử, mắc cao (Viêntian), Mákhâu (Thái), Mắc khấu (Thổ). Tên khoa học Momordica cochinchinensis (Lour) Spreng (Muricia cochichinensis Lour., Muricia mixta Roxb). Thuộc họ Bầu bí (Cucurbitaceae). Cây gấc cho ta những vị thuốc sau đây: (1) Hạt gấc: Một miết tử (Semen momordicae) là hạt lấy ở quả gấc chín và phơi hay sấy khô. (2) Dầu gấc (Oleum Momordicae) là dầu ép tự màng đỏ bọc xung quanh hạt gấc. (3) Rễ gấc (Radix Momordicae) là rễ cây gấc phơi hay sấy khô.
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]