Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

MA HOÀNG - 麻黃

Còn gọi là thảo ma hoàng, xuyên ma hoàng sơn ma hoàng, mộc tặc ma hoàng, mộc ma hoàng, trung ma hoàng.

Tên khoa học Ephedra sinica Stapf., Ephedra equisetina Bunge, Ephedra intermedia Schrenk et Mey.

Thuộc họ Ma hoàng (Ephedraceae).

MA HOÀNG, 麻黃, thảo ma hoàng, xuyên ma hoàng sơn ma hoàng, mộc tặc ma hoàng, mộc ma hoàng, trung ma hoàng, Ephedra sinica Stapf., Ephedra equisetina Bunge, Ephedra intermedia Schrenk et Mey., họ Ma hoàng, Ephedraceae

Thảo ma hoàng - Ephedra sinica

Ma hoàng là một vị thuốc thường dùng trong đông y; hiện nay chưa thấy cây này ở Việt Nam.

Một vài nơi giới thiệu và khai thác một cây khác với tên ma hoàng Việt Nam, nhưng chúng tôi thấy không đúng, do đó giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn. Hiện nay, tại một số nước châu Phi (Angiêri) trồng được ma hoàng có tác dụng, cho nên ta có thể nghiên cứu di thực cây này vào nước ta.

Ma hoàng (Herba Ephedrae) là ngọn hay phần trên mặt đất của nhiều loài ma hoàng phơi hay sấy khô.

Tên ma hoàng vì vị thuốc có vị ma (cay cay tê tê, không rõ rệt) màu vàng.

Tên Ephedra do chữ Epi có nghĩa là trên, hedra có nghĩa là đất, ý nói là cây thuốc mọc trên đá; chữ sinica có nghĩa là cây nguồn gốc ở Trung Quốc; equisetina là một tặc ý nói có loài ma hoàng giống cây mộc tặc (cỏ tháp bút).

Trên thị trường, thường lưu hành nhiều loài ma hoàng, nhưng chủ yếu có mấy loài sau đây:

   1. Thảo ma hoàng, còn gọi là điền ma hoàng hay xuyên ma hoàng, (Herba Ephedrae sinicae) hái ở cây thảo ma hoàng Ephedrae sinica Bunge.

   2. Mộc tặc ma hoàng, còn gọi là mộc ma hoàng, hay sơn ma hoàng (Herba Ephedrae equisetinae), hái từ cây mộc tặc ma hoàng Ephedrae equisetina Bunge.

   Ngoài ra còn trung ma hoàng (Herba Ephedrae intermediae) hái từ cây trung ma hoàng Ephedra intermedia Schrenk et Mey. Song tuệ ma hoàng hái từ cây song tuệ ma hoàng Ephedra distachya L. v.v...

A. MÔ TẢ CÂY

Thảo ma hoàng - Ephedra sinica - là một cây mọc thẳng đứng cao chừng 30-70cm, thân có nhiều đốt, mỗi đốt dài chừng 3-6cm, trên có rãnh dọc. Lá mọc đối hay mọc vòng từng 3 lá một, thoái hóa thành vẩy nhỏ, phía dưới lá màu hồng nâu, phía trên màu tro trắng, đầu lá nhọn và cong; hoa đực hoa cái khác cành; cành hoa đực nhiều hoa hơn (4-5 đôi); quả thịt, màu đỏ giống như quả nho. Vì cây lại hay mọc ở bờ biển cho nên châu Âu gọi ma hoàng là loại nho biển (Raisin de mer). Hạt hơi thò ra.

Mộc tặc ma hoàng - Ephedra equisetina - cũng là là một cây nhỏ mọc thẳng đứng, cao tới 2m, cành cứng hơn, màu xanh xám hay hơi có phấn trắng, đốt ngắn hơn, thường chỉ dài 1-3cm, lá dài 2mm, màu tía. Hoa đực và hoa cái khác cành; quả hình cầu, hạt không thò ra như thảo ma hoàng.

Như vậy chỉ căn cứ vào chiều dài của đốt ta cũng có thể phân biệt hai loài ma hoàng: Thảo ma hoàng có đốt dài hơn (3-6cm), hạt thò ra, còn mộc tặc ma hoàng đốt ngắn hơn (1-3cm), hạt không thò ra.

Tuy nhiên cũng cần nhớ rằng loài trung ma hoàng Ephedra intermedia cũng có đốt dài như thảo ma hoàng, nhưng đường kính cành trung ma hoàng thường hơn 2mm, còn đường kính thảo ma hoàng chỉ khoảng 1,5-2mm.

B. PHÂN BỐ, THU HÁI VÀ CHẾ BIẾN

Như trên đã nói, ma hoàng chưa thấy ở nước ta, số lượng ta dùng hiện nay đều nhập của Trung Quốc. Đối với thế giới, ma hoàng Trung Quốc cũng được coi là tốt nhất, vì nhiều hoạt chất. Tại Trung Quốc, ma hoàng có nhiều ở Hoa Bắc, Tây Bắc, chủ yếu là mọc hoang.

Ma hoàng dùng trong nước và xuất cảng, loài phổ biến nhất là thảo ma hoàng, rồi đến mộc tặc ma hoàng, thường bán hai thứ lẫn lộn; loài trung ma hoàng thường chỉ tiêu thu trong nước tại nơi có cây, ít khi bán đi nơi khác.

Người ta thường thu hái ma hoàng vào mùa thu, trong khi nghiên cứu định lượng hoạt chất, người ta cũng thấy vào mùa thu, hoạt chất đạt tới 100% thì vào mùa xuân hoạt chất chỉ còn 25-30%, nếu chậm thu hoạch vào mùa đông, hoạt chất còn có 50%.

Trong bộ sách thuốc cổ nhất của Trung Quốc (Thần nông bản thảo), người ta cũng đã quy định ma hoàng phải hái vào tiết lập thu, khi thân còn hơi xanh, bỏ các mấu và quả.

Khoa học hiện nay đã chứng minh kinh nghiệm đó là đúng. Đốt và quả chứa rất ít ancaloit; nếu đợi cây già, ngả màu nâu thì vị thuốc hết hiệu lực, chỉ dùng cho trâu bò ăn mà thôi.

C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Trước đây ma hoàng chỉ là một vị thuốc kinh nghiệm lâu đời của đông y; vào những năm 1885 và 1887 hai nhà bác học Nhật Bản là nagai và Hamanashi chiết được từ vị ma hoàng ra chất ancaloit gọi là ephedrin. Từ đó ma hoàng được dùng cả trong tây y. Nhưng dần dần, người ta thấy là tùy theo nguồn gốc ma hoàng, hoạt chất thay đổi, tỷ lệ hoạt chất cũng thay đổi.

Trong ma hoàng người ta đã chiết được những hoạt chất chủ yếu sau đây: Ephedrin hay 1. ephedrin C10H15NO, d. psendo ephedrin C10H15NO, 1.N metyl ephedrin C11H17NO, d. N. metyl ephedrin C11H17NO 1. nor ephedrin C9H13NO, d. nor-ephedrin C9H13NO.

IMG

Trong tất cả những hoạt chất kể trên, ephedrin có tác dụng hơn cả, tỷ lệ vào mùa thu cao hơn, có thể đạt tới 1,3%, sau đến d. pseudo ephedrin chừng 0,20%, những hoạt chất khác đều ở những tỷ lệ rất thấp. Sau đây chúng tôi xin giới thiệu tỷ lệ ancaloit toàn phần trong một số loài ma hoàng thường gặp, đồng thời tỷ lệ của chất ephedrin hay 1. ephedrin trong đó:

IMG

Dược điển Trung Quốc có quy định vị ma hoàng dùng làm thuốc phải chứa ít nhất 0,8% ancaloit toàn phần, độ tro không được quá 9%.

Ngoài các chất kể trên, năm 1934 Triệu Thừa Hà và mai Bân Phu (Trung Hoa y học tạp chí 20: 697) đã chiết được từ thảo ma hoàng một chất gọi là ephedin C8H18N2O3, độ chảy 76-87o.

IMG

D. TÁC DỤNG DƯỢC LÝ

Tác dụng dược lý của ma hoàng chủ yếu là tác dụng dược lý của chất ephedrin hay 1. ephedrin. Xem công thức của ephedrin chúng ta thấy khá giống công thức của adrenalin.

Do đó ta thấy tác dụng của ephedrin gần giống tác dụng của adrenalin, tuy có yếu hơn, nhưng thường lâu hơn. Sau đây là một số tác dụng chính:

   1. Tác dụng giống thần kinh giao cảm. Ephedrin có tác dụng làm giãn phế quản, rất thích hợp cho những trường hợp do phế quản co mà thở khó khăn; đối với cơ trơn của ruột và dạ dày, ephedrin có tác dụng ức chế (giảm) nhu động; ephedrin có tác dụng kích thích cơ tim và làm co nhỏ mạch máu ngoại vi, làm cho tim đập nhanh hơn, huyết áp tăng cao và kéo dài; khi trúng độc hoặc nhỏ vào mắt thì làm giãn đồng tử; ephedrin còn là lượng huyết đường tăng cao, chuyển hóa tăng, co nhỏ lá lách làm tăng lượng hồng huyết cầu.

   2. Kích thích thần kinh trung ương. Ephedrin có tác dụng hưng phấn vỏ đại não làm cho tinh thần phấn chấn, giảm ngắn tác dụng gây ngủ của thuốc ngủ, hưng phấn trung khu hô hấp.

   3. Tác dụng miễn dịch nhanh (tachyphylaxie). Nếu dùng ma hoàng hay ephedrin liên tục thì chóng có hiện tượng mọi tác dụng nói trên kém đi rất mâu (đối với adrenalin không có hiện tượng này).

   Về cơ chế tác dụng của ephedrin, hiện nay ý kiến chưa thống nhất: Có tác giả cho rằng do ephedrin có cấu tạo giống như adrenalin cho nên ephedrin có tác dụng trực tiếp trên các cơ quan như adrenalin; nhưng gần đây một số tác giả (Gaddum và Kwiatkowski, 1938; Blaschko, 1952) lại cho rằng ephedrin có tác dụng gián tiếp bằng cách bảo vệ chất adrenalin trong cơ thể khỏi bị phá huỷ bởi men monoaminooxydaza, tuy nhiên giả thuyết của các tác giả này chưa được chứng minh đầy đủ bằng thực nghiệm cho nên còn phải nghiên cứu sâu hơn nữa.

   Tác dụng gây ra mồ hôi. Trên lâm sàng ma hoàng gây ra mồ hôi rõ rệt nhưng tác dụng này chưa được chứng minh và giải thích thích đáng bằng thực nghiệm. Còn cần nghiên cứu nữa.

   Ngoài ra ma hoàng và ephedrin còn có tác dụng thông tiểu tiện, kích thích bài tiết nước giải, bài tiết dịch vị.

   Tác dụng của ephedin, lại ngược lại với tác dụng của ephedrin. Theo báo cáo của Trần Khắc Khôi (1935 Chinese M. physiol. 9: 17 - 20 thì ephedin làm hạ huyết áp, tăng sự co bóp của tử cung chuột bạch, tăng nhu động ruột của thỏ, hơi kích thích hô hấp.

   Tác dụng dược lý của rễ ma hoàng. Theo sự nghiên cứu của các tác giả Nhật Bản (Lưu Mê Đạt Phu, Mộc Thôn Hùng Tứ Lang, Hoà hán dược dụng thực vật 424, 1940), thì tác dụng dược lý của rễ ma hoàng hoàn toàn ngược lại với tác dụng của cành và thân ma hoàng nếu dùng cao lỏng rễ ma hoàng tiêm vào động vật thì thấy huyết áp giảm xuống, mạch máu ngoại vi giãn ra, hô hấp tăng nhanh.

E. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Ma hoàng được dùng trong cả đông y và tây y chủ yếu dùng chất ephedrin chiết xuất từ ma hoàng, đông y chỉ dùng toàn cảnh phơi khô.

Đông y dùng ma hoàng làm thuốc ra mồ hôi, lợi tiểu tiện, chữa ho, trừ đờm, dùng trong bệnh ho lâu năm, viêm khí quản, hen suyễn, đau khớp xương.

Tính chất của ma hoàng theo các tài liệu cổ như sau: Vị cay đắng, tính ôn; vào 4 kinh Tâm, Phế, Bàng quang và Đại trường; không độc, có khả năng khai thấu lý, ra mồ hôi, lợi tiểu tiện, làm thuốc chữa lỵ long đờm, dùng chữa trúng phong, thương hàn, nhức đầu, chữa ho, phá tích tụ, chữa chứng hay ngủ, tiêu xích ban độc, nhưng không nên uống nhiều sợ người hư hao. Phàm những người khí hư, tự ra mồ hôi (mồ hôi trộm), phổi nóng khó thở thì không dùng được.

Liều dùng hàng ngày: Ngày uống 5-10g dưới hình thức thuốc sắc, thường phối hợp với nhiều vị thuốc khác.

Tây y dùng ephedrin dưới dạng muối clohydrat hay sunfat, dùng riêng hay phối hợp với aspirin, cafein, papaverin. Liều dùng hàng ngày là 0,05 đến 0,15g để chữa hen (bắt đầu dùng liều 0,02g, tăng dần tới liều 0,12 và 0,15g). Có khi dùng ephedrin làm thuốc nhỏ mũi chữa sổ mũi (dung dịch 3% trong nước, mỗi lần nhỏ 1-2 giọt dung dịch này).

Cần chú ý là trong đông y người ta phân biệt cành và rễ. Tác dụng cành đã giới thiệu ở trên.

Theo đông y rễ ma hoàng (ma hoàng căn) và đốt ma hoàng (ma hoàng tiết) có tác dụng ngược lại, làm giảm mồ hôi, dùng trong những bệnh mồ hôi trộm, đẻ xong người yếu mồ hôi ra nhiều.

Đơn thuốc có ma hoàng dùng trong đông y:

   1. Chữa viêm khí quản, hen suyễn, cảm mạo: Ma hoàng thang (bài thuốc của Trương Trọng cảnh ma hoàng 8g, quế chi 6g, hạnh nhân 8g, cam thảo 4g, nước 600ml, sắc còn 200ml chia 3 lần uống trong ngày).

   2. Đơn thuốc khác chữa hen suyên, viêm phế quản mãn tính, lao: Ma hoàng 5g, tế tân 3g, hán hạ 2g, ngũ vị tử 1g, nước 600ml, sắc còn 200ml, chia 3 lần uống trong ngày.

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

Đảm phàn
03/07/2025 09:11 CH

- 膽礬 (胆矾). Còn gọi là thạch phàn. Tên khoa học chalcanthitum, vitriolum caeruleum. Đảm phàn là một khoáng vật thiên nhiên có chứa đồng sunfat (CuSO4) hoặc là một sản phẩm do chế tạo hóa học mà có. Đảm phàn dược dùng từ lâu trong Đông y, có ghi trong "Thần n...

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Nhau sản phụ - 紫河車 (紫河车). Còn gọi là thai bàn, thai y, thai bào, nhân bào, tử hà sa. Tên khoa học Placenta Hominis. Nhau sản phụ là bộ phận ở trong tử cung của người mẹ cùng với cái thai. Khi thai còn ở bụng mẹ thì nhau sản phụ có nhiệm vụ che chở và nuôi dưỡng thai.
Nhện - 蜘蛛. Còn gọi là trứng nhện, bích tiền, bích tâm trùng, bích hỷ oa. Tên khoa học Gossamer Urocteae. Người ta dùng trứng hay toàn con nhện ôm trứng - Uroctea compactilis Koch, thuộc họ Nhện (Urocteidae).
Nhội - 秋楓木 (秋枫木). Còn gọi là thu phong, ô dương, trọng dương mộc. Tên khoa học Bischofia trifoliata (Roxb.) Hook.f. (Bischofia javanica Blume, Andrachne trifoliata Roxb.). Thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae). Cần chú ý ngay là có 2 cây mang tên nhội. Cây thứ 2 thuộc họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae), có tên khoa học là Citharexylon quadrangulare Jacq.
Nhựa cóc - 蟾酥. Còn gọi là thiềm tô. Tên khoa học Secretio Bufonis. Thiềm tô (Secretio Bufonis) là nhựa tiết ở tuyến sau tai và tuyến trên da của con cóc (Bulo bufo thuộc họ Cóc - Bufonidae và những con cùng chi) chế biến mà thành. Loài cóc phổ biến ở nước ta là Bufo melanostictus. Ngoài nhựa có (thiềm tô) con cóc còn cho ta thịt cóc dùng làm thuốc chữa bệnh cam còm của trẻ con. Vị thuốc có độc. Nhựa cóc thuộc loại thuốc độc bảng A. Cần chú ý, dùng phải cẩn thận.
Nhục đậu khấu - 肉豆蔻. Còn gọi là nhục quả, ngọc quả, muscade, noix de muscade. Tên khoa học Myristica fragrans Houtt. Thuộc họ Nhục đậu khấu (Myristicaceae). Cây nhục đậu khấu cho ta các vị thuốc sau đây: (1) Nhục đậu khấu (Semen Myristicae) là nhân phơi hay sấy khô của cây nhục đậu khấu. (2) Ngọc quả hoa còn gọi là nhục đậu khấu y (Arillus Myristicae hay Macis) là áo của hạt nhục đậu khấu phơi hay sấy khô.
Nhục thung dung - 肉蓯蓉 (肉苁蓉). Tên khoa học Herba Cistanches Caulis Cistanchis. Vị thuốc nhục thung dung ít dùng, nhưng lại rất được sử dụng chữa những trường hợp yếu sinh lý, sinh dục. Sách thần nông bản thảo xếp vị nhục thunh dung vào loại "thượng phẩm".
Niễng - 茭白. Còn gọi là cô mễ, giao cẩn, lúa miêu, của niễng, giao bạch tử. Tên khoa học Zizania latifolia Turcz, (Zizania aquatica L., Zizapia dahurica Steud, Hydropyrum latifolium Griseb., Limnochloa caduciflora Turcz.). Thuộc họ Lúa Poeceae (Gramineae). Cây niễng cho vị thuốc là giao bạch tử. Giao bạch tử (Fructsus Zizaniae) là quả cây niễng phơi hay sấy khô.
Niệt gió - 了哥王. Còn gọi là gió niệt, gió cánh, gió miết, gió chuột, liễu kha vương, lĩnh nam nguyên hoa, cửu tin thảo, sơn miên bì, địa ba ma, độc ngư đằng. Tên khoa học Wikstroemia indica C. A. Mey. (Wikstroemia viridiflora Meissn, Daphne cannabina Lour.). Thuộc họ Trầm (Thymeleaceae).
Nọc ong - 蜂毒. Nọc ong là một vị thuốc được nhân dân nhiều nước châu Á và châu Âu biết dùng từ lâu để chữa nhiều bệnh khác nhau. Nọc ong là sản phẩm của những tuyến đặc biệt trong cơ thể con ong, muốn dùng nọc ong trước đây người ta cho con ong đốt, hay có khi người ta uống con ong, gần đây người ta lấy nọc ong riêng rồi chế thành thuốc với những dạng khác nhau như nhũ dịch, dầu bôi có nọc ong, thuốc tiêm dưới da, di chuyển ion (ionphorese). Muốn lấy nọc ong hàng loạt, người ta thường kích thích con ong bằng cách giết chết một con ong, đặt lên một màng mỏng có dòng điện, khi những con ong khác đậu vào bị dòng điện kích thích sẽ "đốt " màng mỏng. Nọc chảy ra người ta hứng lấy để chế thuốc.
Núc nác - 千張紙 (千张纸). Còn gọi là so đo thuyền, lin may, mộc hồ điệp, ung ca (Lào-Viêntian), k'nốc (Buônmêthuột), nam hoàng bá, hoàng bá nam, thiêu tầng chỉ, bạch ngọc nhi, thiên trương chỉ (Vân Nam) triểu giản (Quảng Tây). Tên khoa học Oroxylum indicum (L.), Vent (Bignonia indica L., Calosanthes indica Blume). Thuộc họ Chùm ớt (Bignoniaceae). Cây núc nác cung cấp cho ta hai vị thuốc: (1) Vỏ núc nác (Cortex Oroxyli) là vỏ thân phơi hay sấy khô của cây núc nác; (2) Hạt núc nác (Semen Oroxyli) là hạt phơi hay sấy khô của cây núc nác. Hạt núc nác làm thuốc có tên mộc hồ điệp (mộc là gỗ, cây; hồ điệp là con bướm) vì hạt trông giống như con bướm bằng gỗ.
Nước bọt - 唾液. Còn gọi là nước dãi, nước miếng, thần thuỷ (nước thần), quỳnh dịch (nước ngọc), ngọc tương (nước ngọc), kim tân gọc dịch, quỳnh dịch dưỡng sinh pháp (phép dưỡng sinh bằng nước bọt). Tên khoa học Saliva.
Nước tiểu - 人尿. Còn gọi là đồng tiện, nhân niệu, luân hồi tửu, hoàn nguyên thang. Tên khoa học Urina Hominis. Trong những tên khác nhau tên đồng tiện chỉ dành chỉ nước tiểu của trẻ em, thường là của trẻ em trai, dưới 12 tuổi, mạnh khỏe. Nhưng trong những tài liệu cổ, ngoài nước tiểu trẻ em ra, người ta dùng cả nước tiểu người lớn với tên nhân niệu (nước tiểu của người lớn). Rồi vì không coi nước tiểu của người lớn là chất cặn bã do người thải ra, mà là vị thuốc quý nếu biết dùng nên mới gọi là luân hồi tửu (thứ rượu uống vào, thải ra lại uống vào), hoàn nguyên thang (thang thuốc đưa trở về cội nguồn). Trong 24 giờ, hai quả thận lọc được từ máu 180 lít nước (gấp 3 lần trọng lượng cơ thể 50kg). Nếu không đưa lượng nước ấy (trong đó có chất muối và nhiều chất khoáng vô cùng cần thiết cho cuộc sống của con người) thì con người sống sao nổi. Cho nên một phần lớn nước đó được đưa trở lại nuôi cơ thể, còn một phần thải ra dưới dạng nước tiểu, mồ hôi, ...
Ô đầu - Phụ tử - 烏頭 - 附子 (乌头 - 附子). Trong đông y thường coi phụ tử là một vị thuốc bổ "dương" do đó có câu (sâm, nhung, quế, phụ) nhưng có nhiều người lại rất sợ phụ tử vì coi đó là một vị thuốc rất độc. Vậy sự thật như thế nào? Ô đầu và phụ tử là hai vị thuốc khác nhau hay là cùng một vị? Do một cây hay do hai cây khác nhau? Cần nắm vững ngay rằng ô đầu, phụ tử đều do một cây mà ra, nhưng do cách chế biến khác nhau mà ô đầu rất độc, thường chỉ dùng để xoa bóp bên ngoài, còn phụ tử ít độc hơn có thể dùng uống trong với liều khá cao.
Ô đầu và phụ tử - 烏頭 附子 (乌头 附子). Còn gọi là xuyên ô, thảo ô. Tên khoa học Aconitum sinense Paxt. Thuộc họ Mao lương (Ranuneulaceae). Ô đầu và phụ tử để do rễ củ của một cây cung cấp, nhưng do cách chế biến khác nhau, nên được hai vị thuốc khác hẳn nhau: (1). Ô đầu (Radix Aconiti) là rễ củ mẹ của cây ô đầu - Acontum sinense, đào về, rửa sạch phơi hay sấy khô. Vị thuốc này các vị lương y đều thống nhất coi là vị thuốc rấr độc. Hiện được xếp vào loại thuốc rất độc bảng A. (2). Phụ tử là rễ củ con của cây ô đầu nói trên, nhưng đem về chế biến rồi mới dùng. Phụ tử lại chia ra diêm phụ, hắc phụ và bạch phụ củ, bạch phụ phiếm. Các vị lương y có người coi là độc, nhưng có vị coi là không độc vì có thể dùng hàng gam đến 40-50g hay hơn nữa.
Ô đầu Việt Nam - 越南烏頭 (越南乌头). Còn gọi là củ gấu tàu, củ ấu tàu (đừng nhầm với vị hương phụ có tên là củ gấu, xem vị này), cố y (Mèo - Nghĩa Lộ). Tên khoa học Aconitum fortunei Hemsl, (A. conitum sinense Sieb., Aconitum kusnezoffii Reichb var bodinieri Fin. et gagnep). Thuộc họ Mao lương (Ranunculaceae). Cây này trước đây được Dr Daels giám đốc vườn thực vật Berlin Dahlem xác định là Aconitum semigaleatum.
Ô dược - 烏葯 (乌药). Còn gọi là cây dầu đắng, ô dược nam. Tên khoa học Lindera myrrha (Lour.) Merr. (Laurus myrrha Lour., Litsea trinervia Pers., Tetratthersa trinervia Spreng., Daphnidium myrrha Nees.). Thuộc họ Long não (Lauraceae). Ô dược (Radix Linderae) là rễ phơi hay sấy khô của cây dầu đắng hay ô dược nam.
Ô môi - Còn gọi là bọ cạp nước, bồ cạp nước, cây cốt khí, cây quả canhkina, sac phlê, krêête, rich chopeu (Cămpuchia), brai xiêm, may khoum (Viên chăn). Tên khoa học Cassia grandis L. Thuộc họ Vang (Caesalpiniaceae).
Ô rô - 大薊 (大蓟). Còn gọi là đại kế, thích kế, thiết thích ngãi, dã thích thái, thích khải tử, hổ kế, mã kế, dã hồng hoa, sơn ngưu bàng, hê hạng thảo. Tên khoa học Cncus japonicus. (DC.) Maxim (Cirsium japonicum DC.). Thuộc họ Cúc (Compositae). Đại kế (Herba et Radix Cirsii japonici) là toàn cây ô rô phơi hay sấy khô, bao gồm thân, cành, lá, cụm hoa và rễ.
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]