Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

KHỔ SÂM

Tên khổ sâm có nghĩa sâm đắng được dùng để chỉ ba vị thuốc nguồn gốc và công dụng khác hẳn nhau.

1. Hạt khổ sâm: Thực tế là quả của cây sầu đâu rừng Brucea sumatrana thuộc họ Khổ sâm (Simarubaceae), hay nha đảm tử - khổ luyện tử. Xem vị nha đảm tử ở mục thuốc chữa lỵ.

2. Lá của cây khổ sâm Croton tonkinensis thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae).

3. Rễ cây dã hòe (hòe mọc hoang) Sophora flavescens.

Hai vị sau được giới thiệu dưới đây. Cần chú ý khi dùng để tránh nhầm lẫn.


CÂY KHỔ SÂM CHO LÁ (1)

(1) Tên "khổ sâm cho lá" do chúng tôi mới đặt ra, để dễ phân biệt. Trong nhân dân chỉ có tên khổ sâm.

Tên khoa học Croton tonkinensis Gagnep.

Thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae).

CÂY KHỔ SÂM CHO LÁ, Croton tonkinensis Gagnep, họ Thầu dầu, Euphorbiaceae

Cây khổ sâm cho lá - Croton tonkinensis

Ta dùng lá phơi khô của cây khổ sâm.

A. MÔ TẢ CÂY

Cây nhỏ cao độ 0,70-1m.

Lá mọc cách hay gần như mọc đối, có khi mọc thành vòng giả gồm 3-6 lá. Lá hình mũi mác, mép nguyên dài 5-10cm, rộng 1-3cm. Cả hai mặt lá đều có nhiều lông hình khiên óng ánh (kiểu lông ở lá cây nhót) nhưng mặt dưới nhiều hơn ở mặt trên. Khi phơi khô, mặt lá dưới có màu trắng bạc, mặt trên có màu nâu đen.

Cụm hoa mọc ở kẽ lá hay đầu cành, lưỡng tính hay đơn tính. Hoa đực có 5 lá đài, 12 nhị, hoa cái có 5 lá đài, 3 vòi nhị.

Quả gồm 3 mảnh vỏ, màu hung hung đỏ.

B. THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Chưa thấy có tài liệu nghiên cứu.

C. TÁC DỤNG DƯỢC LÝ

Chưa thấy có tài liệu nghiên cứu.

D. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Cây này mới được nhiều người chú ý mấy  năm gần đây do được dùng trong đơn thuốc chữa đau dạ dày, có lá khôi sau đây: Lá khôi Ardisia sylvestris 50g, lá bồ công anh Lactuca indica 20g, lá khổ sâm Croton tonkinensis 12g; nước 600ml, sắc đặc và cô còn chừng 200ml; chia làm 2 hay 3 lần uống trong ngày. Uống liên tục trong 10 ngày, lại nghỉ 3 ngày. Cứ như vậy cho đến khi khỏi đau, uống thêm một tuần nữa.

Có người thêm vào đơn thuốc trên 3 lát gừng sống đối với người hay đi ỉa lỏng.

Nếu dùng riêng thường dùng với liều 24-40g (lá khô sao vàng), thêm 600ml nước (3 bát), sắc còn 1 bát (200ml), chia 2 hay 3 lần uống trong ngày, 15 phút đến nửa giờ trước khi ăn cơm. Để ăn ngon cơm, giúp sự tiêu hóa.


CÂY KHỔ SÂM CHO RỄ - 苦參 (苦参)

Còn có tên là dã hòe, khổ cốt, khổ sâm.

Tên khoa học Sophora flavescens Ait (Sophora angustifolia Sieb et Zucc.).

Thuộc họ Cánh bướm (Papilionaceae).

IMG

Cây khổ sâm cho rễ - Sophora flavescens

Khổ sâm (Radix Sophorae) là rễ phơi hay sấy khô của cây khổ sâm.

A. MÔ TẢ CÂY

Cây nhỏ cao 0,50-1,20m. Rễ hình trụ, vỏ ngoài màu vàng lá kép lông chim lẻ, mọc so le, gồm 5-10 đôi lá chét.

Lá chét hình mác dài 2-4,5cm, rộng 7-16mm.

Hoa mọc thành chùm dài 10-20cm. Hoa màu vàng trắng.

Quả giáp dài 5-12cm, đường kính 5-8mm, đầu có mỏ dài chứa 3-7 hạt, gần hình cầu, màu đen.

B. PHÂN BỐ, THU HÁI VÀ CHẾ BIẾN

Cây này chưa thấy ở Việt Nam. Đang được di thực.

Hiện vị thuốc vẫn nhập của Trung Quốc. Tại Trung Quốc cây mọc ở khắp các tỉnh Vân Nam, Phúc Kiến, Quảng Đông, Hà Bắc.

Qua địa lý phân bố  ở Trung Quốc, ta thấy có thể tìm thấy cây này ở Việt Nam tại các tỉnh biên giới Trung - Việt.

C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Trong rễ khổ sâm, người ta đã nghiên cứu thấy các chất như: 2,5% chất ancaloit có tên matrin C15H24N2O, sophocacpin C15H24N2O.H2O, oxymatrin C15H24N2.H2O. Ngoài ra trong rễ còn có chất xytisin C11H14ON2. Trong lá khổ sâm có chứa 47mg% vitamin C. Trong hoa có 0,12% tinh dầu.

Chất matrin được nhà bác học Nhật Bản Nagai chiết xuất từ năm 1899 và được Kondo (Nhật Bản 1928-1935) xác định công thức khai triển như sau:

IMG

Matrin có nhiều dạng tinh thể và nhiều độ chảy khác nhau 76-87º và 84º. Hơi tan trong ête, cồn, clorofoc, benzen, nước lạnh, ít tan trong ête dầu hoả, ít tan trong nước nóng hơn trong nước lạnh.

D. TÁC DỤNG DƯỢC LÝ

Tác dụng đối với trung khu thần kinh.

Theo báo cáo của Doãn Cơ Ninh (1933) dùng matrin tiêm vào thỏ nhà thấy trung khu thần kinh bị tê liệt, đồng thời phát sinh hiện tượng co quắp (kinh loạn), cuối cùng hô hấp ngừng lại rồi chết. Nếu tiêm vào một loại ếch (thanh oa) thì trước tiên thấy hiện tượng hưng phấn, rồi sau tê liệt, vận động hô hấp chậm lại không theo quy tắc nào cả, rồi đến co quắp và chết do ngừng hô hấp. Hiện tượng co quắp này do phản xạ tủy sống tăng mạnh.

Một tác giả Nhật Bản báo cáo tiêm matrin vào dưới da của thỏ thì liều tối thiểu gây chết đối với thỏ là 0,4g/kg thể trọng, lúc đầu gây hiện tượng co quắp mạnh, cuối cùng ngừng hô hấp và chết.

Tác dụng lợi tiểu. Năm 1953, một tác giả Trung Quốc nghiên cứu trên thỏ và trên lâm sàng thuốc chế từ khổ sâm và chát matrin thấy những kết quả sau đây:

   1. Trong số 30 bệnh nhân mắc bệnh ho, dạ dày, ruột, tim và máu, uống thuốc khổ sâm thì 27 bệnh nhân thấy lợi tiểu rõ rệt (90%). Ngày uống 4g khổ sâm, bắt đầu có kết quả lợi tiểu; với liều 8g một ngày, kết quả tốt nhất; với liều 12g một ngày kết quả cũng chỉ như liều 8g. Do đó tác giả đề nghị liều 8g đối với người lớn cân nặng 45kg, và có thể tính liều: 8/45 làm cơ sở đối với người khác.

   2. Định lượng clorua trong nước tiểu bằng phương pháp Koranvi - Ruszuyak thì thấy nước tiểu của 9 bệnh nhân có lượng clorua tăng cao.

   3. Dùng dung dịch matrin 0,1% và 1% tiêm vào 3 con thỏ đực lớn và 3 thỏ con sức nặng 0,935-1,31 kg (tiêm dưới da, mạch máu, màng bụng hoặc bắp thịt), thì thấy tất cả các con vật và các phương pháp tiêm khác nhau đều gây lợi tiểu rõ rệt với liều 2ml dung dịch 1% cho mỗi con, không có hiện tượng phụ khó chịu nào, cũng không ảnh hưởng gì đến sự lớn của thỏ con. Tác giả còn căn cứ trên thí nghiệm, ấn định liều cho người lớn là 0,45g, dùng dưới dạng dung dịch 10% tiêm một lần 5ml.

   Tiếc rằng trong bản báo cáo, tác giả không cho biết lượng nước uống hàng ngày của bệnh nhân và con vật.

Tác dụng đối với huyết áp. Vẫn theo tác giả nói trên, khi bệnh nhân uống nước sắc khổ sâm, huyết áp thay đổi trong phạm vi giới hạn thay đổi sinh lý do đó ông cho rằng khổ sâm không có tác dụng bổ tim, cũng không có tác dụng tăng hoặc giảm huyết áp.

Tác dụng đối với dạ dày và ruột. Khổ sâm là một vị thuốc bổ đắng.

E. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Khổ sâm là một vị thuốc bổ đắng, thuốc lợi tiểu tiện.

Ngoài ra còn công dụng chữa lỵ, sốt quá hóa điên cuồng; còn dùng chữa giun và ký sinh của súc vật, sắc nước rửa mụn nhọt, lở loét. Ngày dùng 12g dưới dạng thuốc sắc, chia làm 2-3 lần uống trong ngày.

Đơn thuốc có khổ sâm:

   - Chữa sốt quá hoá điên cuồng (Viên khổ sâm): Khổ sâm tán bột, thêm mật vào viên thành viên bằng hạt ngô. Ngày uống 10 viên. Dùng nước sắc bạc hà làm thang chiêu thuốc.

   - Thuốc chữa lỵ: Khổ sâm sao vàng tán nhỏ. Ngày uống 3 lần, chữa lỵ ra máu.

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

Thạch cao
07/07/2025 09:04 CH

- 石膏. Còn gọi là đại thạch cao, bạch hổ, băng thạch. Tên khoa học Gypsum. Thạch cao (Gypsum) là một loại khoáng vật có tinh thể tụ tập thành khối.

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Nhau sản phụ - 紫河車 (紫河车). Còn gọi là thai bàn, thai y, thai bào, nhân bào, tử hà sa. Tên khoa học Placenta Hominis. Nhau sản phụ là bộ phận ở trong tử cung của người mẹ cùng với cái thai. Khi thai còn ở bụng mẹ thì nhau sản phụ có nhiệm vụ che chở và nuôi dưỡng thai.
Nhện - 蜘蛛. Còn gọi là trứng nhện, bích tiền, bích tâm trùng, bích hỷ oa. Tên khoa học Gossamer Urocteae. Người ta dùng trứng hay toàn con nhện ôm trứng - Uroctea compactilis Koch, thuộc họ Nhện (Urocteidae).
Nhội - 秋楓木 (秋枫木). Còn gọi là thu phong, ô dương, trọng dương mộc. Tên khoa học Bischofia trifoliata (Roxb.) Hook.f. (Bischofia javanica Blume, Andrachne trifoliata Roxb.). Thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae). Cần chú ý ngay là có 2 cây mang tên nhội. Cây thứ 2 thuộc họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae), có tên khoa học là Citharexylon quadrangulare Jacq.
Nhựa cóc - 蟾酥. Còn gọi là thiềm tô. Tên khoa học Secretio Bufonis. Thiềm tô (Secretio Bufonis) là nhựa tiết ở tuyến sau tai và tuyến trên da của con cóc (Bulo bufo thuộc họ Cóc - Bufonidae và những con cùng chi) chế biến mà thành. Loài cóc phổ biến ở nước ta là Bufo melanostictus. Ngoài nhựa có (thiềm tô) con cóc còn cho ta thịt cóc dùng làm thuốc chữa bệnh cam còm của trẻ con. Vị thuốc có độc. Nhựa cóc thuộc loại thuốc độc bảng A. Cần chú ý, dùng phải cẩn thận.
Nhục đậu khấu - 肉豆蔻. Còn gọi là nhục quả, ngọc quả, muscade, noix de muscade. Tên khoa học Myristica fragrans Houtt. Thuộc họ Nhục đậu khấu (Myristicaceae). Cây nhục đậu khấu cho ta các vị thuốc sau đây: (1) Nhục đậu khấu (Semen Myristicae) là nhân phơi hay sấy khô của cây nhục đậu khấu. (2) Ngọc quả hoa còn gọi là nhục đậu khấu y (Arillus Myristicae hay Macis) là áo của hạt nhục đậu khấu phơi hay sấy khô.
Nhục thung dung - 肉蓯蓉 (肉苁蓉). Tên khoa học Herba Cistanches Caulis Cistanchis. Vị thuốc nhục thung dung ít dùng, nhưng lại rất được sử dụng chữa những trường hợp yếu sinh lý, sinh dục. Sách thần nông bản thảo xếp vị nhục thunh dung vào loại "thượng phẩm".
Niễng - 茭白. Còn gọi là cô mễ, giao cẩn, lúa miêu, của niễng, giao bạch tử. Tên khoa học Zizania latifolia Turcz, (Zizania aquatica L., Zizapia dahurica Steud, Hydropyrum latifolium Griseb., Limnochloa caduciflora Turcz.). Thuộc họ Lúa Poeceae (Gramineae). Cây niễng cho vị thuốc là giao bạch tử. Giao bạch tử (Fructsus Zizaniae) là quả cây niễng phơi hay sấy khô.
Niệt gió - 了哥王. Còn gọi là gió niệt, gió cánh, gió miết, gió chuột, liễu kha vương, lĩnh nam nguyên hoa, cửu tin thảo, sơn miên bì, địa ba ma, độc ngư đằng. Tên khoa học Wikstroemia indica C. A. Mey. (Wikstroemia viridiflora Meissn, Daphne cannabina Lour.). Thuộc họ Trầm (Thymeleaceae).
Nọc ong - 蜂毒. Nọc ong là một vị thuốc được nhân dân nhiều nước châu Á và châu Âu biết dùng từ lâu để chữa nhiều bệnh khác nhau. Nọc ong là sản phẩm của những tuyến đặc biệt trong cơ thể con ong, muốn dùng nọc ong trước đây người ta cho con ong đốt, hay có khi người ta uống con ong, gần đây người ta lấy nọc ong riêng rồi chế thành thuốc với những dạng khác nhau như nhũ dịch, dầu bôi có nọc ong, thuốc tiêm dưới da, di chuyển ion (ionphorese). Muốn lấy nọc ong hàng loạt, người ta thường kích thích con ong bằng cách giết chết một con ong, đặt lên một màng mỏng có dòng điện, khi những con ong khác đậu vào bị dòng điện kích thích sẽ "đốt " màng mỏng. Nọc chảy ra người ta hứng lấy để chế thuốc.
Núc nác - 千張紙 (千张纸). Còn gọi là so đo thuyền, lin may, mộc hồ điệp, ung ca (Lào-Viêntian), k'nốc (Buônmêthuột), nam hoàng bá, hoàng bá nam, thiêu tầng chỉ, bạch ngọc nhi, thiên trương chỉ (Vân Nam) triểu giản (Quảng Tây). Tên khoa học Oroxylum indicum (L.), Vent (Bignonia indica L., Calosanthes indica Blume). Thuộc họ Chùm ớt (Bignoniaceae). Cây núc nác cung cấp cho ta hai vị thuốc: (1) Vỏ núc nác (Cortex Oroxyli) là vỏ thân phơi hay sấy khô của cây núc nác; (2) Hạt núc nác (Semen Oroxyli) là hạt phơi hay sấy khô của cây núc nác. Hạt núc nác làm thuốc có tên mộc hồ điệp (mộc là gỗ, cây; hồ điệp là con bướm) vì hạt trông giống như con bướm bằng gỗ.
Nước bọt - 唾液. Còn gọi là nước dãi, nước miếng, thần thuỷ (nước thần), quỳnh dịch (nước ngọc), ngọc tương (nước ngọc), kim tân gọc dịch, quỳnh dịch dưỡng sinh pháp (phép dưỡng sinh bằng nước bọt). Tên khoa học Saliva.
Nước tiểu - 人尿. Còn gọi là đồng tiện, nhân niệu, luân hồi tửu, hoàn nguyên thang. Tên khoa học Urina Hominis. Trong những tên khác nhau tên đồng tiện chỉ dành chỉ nước tiểu của trẻ em, thường là của trẻ em trai, dưới 12 tuổi, mạnh khỏe. Nhưng trong những tài liệu cổ, ngoài nước tiểu trẻ em ra, người ta dùng cả nước tiểu người lớn với tên nhân niệu (nước tiểu của người lớn). Rồi vì không coi nước tiểu của người lớn là chất cặn bã do người thải ra, mà là vị thuốc quý nếu biết dùng nên mới gọi là luân hồi tửu (thứ rượu uống vào, thải ra lại uống vào), hoàn nguyên thang (thang thuốc đưa trở về cội nguồn). Trong 24 giờ, hai quả thận lọc được từ máu 180 lít nước (gấp 3 lần trọng lượng cơ thể 50kg). Nếu không đưa lượng nước ấy (trong đó có chất muối và nhiều chất khoáng vô cùng cần thiết cho cuộc sống của con người) thì con người sống sao nổi. Cho nên một phần lớn nước đó được đưa trở lại nuôi cơ thể, còn một phần thải ra dưới dạng nước tiểu, mồ hôi, ...
Ô đầu - Phụ tử - 烏頭 - 附子 (乌头 - 附子). Trong đông y thường coi phụ tử là một vị thuốc bổ "dương" do đó có câu (sâm, nhung, quế, phụ) nhưng có nhiều người lại rất sợ phụ tử vì coi đó là một vị thuốc rất độc. Vậy sự thật như thế nào? Ô đầu và phụ tử là hai vị thuốc khác nhau hay là cùng một vị? Do một cây hay do hai cây khác nhau? Cần nắm vững ngay rằng ô đầu, phụ tử đều do một cây mà ra, nhưng do cách chế biến khác nhau mà ô đầu rất độc, thường chỉ dùng để xoa bóp bên ngoài, còn phụ tử ít độc hơn có thể dùng uống trong với liều khá cao.
Ô đầu và phụ tử - 烏頭 附子 (乌头 附子). Còn gọi là xuyên ô, thảo ô. Tên khoa học Aconitum sinense Paxt. Thuộc họ Mao lương (Ranuneulaceae). Ô đầu và phụ tử để do rễ củ của một cây cung cấp, nhưng do cách chế biến khác nhau, nên được hai vị thuốc khác hẳn nhau: (1). Ô đầu (Radix Aconiti) là rễ củ mẹ của cây ô đầu - Acontum sinense, đào về, rửa sạch phơi hay sấy khô. Vị thuốc này các vị lương y đều thống nhất coi là vị thuốc rấr độc. Hiện được xếp vào loại thuốc rất độc bảng A. (2). Phụ tử là rễ củ con của cây ô đầu nói trên, nhưng đem về chế biến rồi mới dùng. Phụ tử lại chia ra diêm phụ, hắc phụ và bạch phụ củ, bạch phụ phiếm. Các vị lương y có người coi là độc, nhưng có vị coi là không độc vì có thể dùng hàng gam đến 40-50g hay hơn nữa.
Ô đầu Việt Nam - 越南烏頭 (越南乌头). Còn gọi là củ gấu tàu, củ ấu tàu (đừng nhầm với vị hương phụ có tên là củ gấu, xem vị này), cố y (Mèo - Nghĩa Lộ). Tên khoa học Aconitum fortunei Hemsl, (A. conitum sinense Sieb., Aconitum kusnezoffii Reichb var bodinieri Fin. et gagnep). Thuộc họ Mao lương (Ranunculaceae). Cây này trước đây được Dr Daels giám đốc vườn thực vật Berlin Dahlem xác định là Aconitum semigaleatum.
Ô dược - 烏葯 (乌药). Còn gọi là cây dầu đắng, ô dược nam. Tên khoa học Lindera myrrha (Lour.) Merr. (Laurus myrrha Lour., Litsea trinervia Pers., Tetratthersa trinervia Spreng., Daphnidium myrrha Nees.). Thuộc họ Long não (Lauraceae). Ô dược (Radix Linderae) là rễ phơi hay sấy khô của cây dầu đắng hay ô dược nam.
Ô môi - Còn gọi là bọ cạp nước, bồ cạp nước, cây cốt khí, cây quả canhkina, sac phlê, krêête, rich chopeu (Cămpuchia), brai xiêm, may khoum (Viên chăn). Tên khoa học Cassia grandis L. Thuộc họ Vang (Caesalpiniaceae).
Ô rô - 大薊 (大蓟). Còn gọi là đại kế, thích kế, thiết thích ngãi, dã thích thái, thích khải tử, hổ kế, mã kế, dã hồng hoa, sơn ngưu bàng, hê hạng thảo. Tên khoa học Cncus japonicus. (DC.) Maxim (Cirsium japonicum DC.). Thuộc họ Cúc (Compositae). Đại kế (Herba et Radix Cirsii japonici) là toàn cây ô rô phơi hay sấy khô, bao gồm thân, cành, lá, cụm hoa và rễ.
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]