Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

HOÀNG TINH - 黃精

Còn gọi là củ cây cơm nếp (Lào Cai) woòng sính, kim thị hoàng tinh, cứu hoang thảo, koesd ka sat pa (Mèo Xiêng Khoảng).

Tên khoa học Polygonatum kingianum coll. et Hemsl.

Thuộc họ hành tỏi (Liliaceae).

HOÀNG TINH, 黃精, củ cây cơm nếp, woòng sính, kim thị hoàng tinh, cứu hoang thảo, koesd ka sat pa, Polygonatum kingianum coll. et Hemsl., họ hành tỏi, Liliaceae

Cây hoàng tinh - Polygonatum kingianum

Hoàng tinh (Rhizoma Polygonati) là thân rễ phơi hay sấy khô hoặc chế biến rồi phơi hay sấy khô của cây cơm nếp hay cây hoàng tinh Polygonatum kingianum coll. et Hemsl và các cây cùng chi khác loài như Polygonatum sibiricum Redoute, Polygonatum multiflorum L.v.v... đều thuộc họ hành tỏi (Liliaceae).

Không nên nhầm tên cây hoàng tinh này với cây hoàng tinh hay cây củ dong cho tinh bột vẫn thấy luộc bán ở nhiều nơi. Cây này có tên khoa học Maranta arundinacea L. thuộc họ Dong (Marantaceae).

Người xưa cho rằng vì vị thuốc có màu vàng (hoàng = vàng) do tinh khí của đất sinh ra, cho nên có tên hoàng tinh.

A. MÔ TẢ CÂY

Cây loại cỏ sống lâu năm, thân rễ mọc ngang, có khi phân nhánh, mẫm lên thành củ màu vàng trắng, hơi dẹt nên có sẹo lõm là vết thân còn sót lại, đường kính vết thân có thể đạt tới 2cm. Chiều dài củ có thể tới 30-35cm, rộng tới 6-7cm và dày tới 2-3cm. Thân mọc đứng nhẵn bóng, cao 50-80cm.

Lá không cuống mọc vòng trong 4-5 lá một. Phiến lá hình mác dài 7-12cm, rộng 5-12 mm, đầu lá nhọn và quăn.

Hoa mọc ở lẽ lá rũ xuống; cuống hoa dài1,5-2cm, mỗi cuống mang hai hoa hình ống dài 8-15mm màu tím đỏ. Mùa hoa ở Sapa (Lào Cai) vào tháng 3-4.

Quả mọng, hình cầu đường kính 7-10mm, khi chín có màu tím đen.

B. PHÂN BỐ, THU HÁI VÀ CHẾ BIẾN

Mọc hoang ở những nơi rừng ẩm, đất nhiều mùa trên các núi có lẫn đá xanh, ở các tỉnh miền Bắc. Quanh thị trấn Sapa có nhiều.

Cho đến nay, ta vẫn dùng những cây mọc hoang, chưa ai chú ý trồng. Muốn trồng, đào lấy những mẩu thân rễ có ít nhất 2 đốt đem về trồng ở nơi đất tốt và mát.

Thường sau 5 năm mới thu hoạch. Hái thân rễ vào mùa thu hoặc mùa xuân, tốt nhất vào mùa thu vì thân rễ chứa ít nước. Có những nơi thu hái gần quanh năm từ tháng 4 đến tháng 10.

Có nhiều cách chế biến: Đào củ (thân rễ) cắt bỏ thân và rễ con, rửa sạch, thêm nước vào, đun cạn  đem ra phơi, lại cho vào nước đun cạn rồi lại đem ra phơi, làm như vậy cho đến khi củ mềm, mặt ngoài và trong có màu đen là được. Vị thuốc chế như vậy gọi là "thục hoàng tinh". Do tên này nên có người nhầm thục hoàng tinh với thục địa, dùng và bán thay thục địa. Nếu không đun ăn rất ngứa (thục là nấu, hoàng là tinh nấu).

C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Chưa rõ hoạt chất là gì.

Chỉ mới biết trong củ hoàng tinh có chất nhầy, tinh bột và đường.

Dịch chiết bằng ête từ củ hoàng tinh cho với các thuốc thử ancaloit phản ứng dương tính.

D. TÁC DỤNG DƯỢC LÝ

Năm 1927-1928, Mẫn Bình Kỳ đã nghiên cứu chế thuốc bằng hoàng tinh Polygonatum multiflorum cho thỏ uống thì thấy lượng huyết đường bắt đầu bình thường, sau đó tăng cao và cuối cùng lại hạ xuống. Hiện tượng lượng huyết đường tăng cao này không do chất đường có trong hoàng tinh gây ra.

Lượng đường tăng theo tỷ lệ thuận với lượng hoàng tinh cho uống.

Đối với hiện tượng huyết đường do clohydrat adrennalin gây ra, tác dụng ức chế của hoàng tinh lại càng rõ rệt.

Mẫn Bình Kỳ còn dùng thuốc chế từ hoàng tinh tiêm vào tĩnh mạch thỏ, thì thấy tức thời huyết áp hạ xuống, tần số hô hấp lúc đầu tạm thời tăng lên, sau đó dần dần chậm lại và yếu đi.

Liều lớn gây tê liệt trung khu hô hấp làm cho hô hấp ngừng lại mà chết.

E. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Hoàng tinh là một vị thuốc mới được dùng trong phạm vi nhân dân.

Theo sách cổ: "Hoàng tinh nhuận phổi sinh tân dịch, đầy tinh tủy, trị lao thương, làm thuốc bổ ngũ lao, mạnh gân cốt, ích tỳ vị".

Trương Sơn Lôi (một thầy thuốc thời cổ) nói thêm "Công dụng của hoàng tinh cũng như thục địa chuyên bổ huyết, bổ âm, nuôi tì vị; những ngừơi nào đờm thấp, yếu dạ không nên ăn".

Ngày dùng 12-20gam dưới dạng thuốc sắc hoặc thuốc bột, dùng riêng hoặc phối  hợp với các vị khác.

Theo tài liệu cổ: Hoàng tinh có vị ngọt, tính bình; vào 3 kinh Tỳ, Phế và Vị. Có tác dụng bổ tì, nhuận phế, sinh tân. Dùng chữa tì vị hư nhược, phế hư sinh ho, tiêu khát. Người tì hư thấp thịnh, ăn không tiêu không dùng được.

Có nơi người ta ăn thay gạo khi mất mùa do đó có tên là cứu hoang thảo (cây chống đói).

Đơn thuốc có hoàng tinh:

   - Đơn thuốc bổ dùng cho người yếu, ho, lao lực: Hoàng tinh 15g, ý dĩ 10g, nước 600ml, sắc còn 200ml. Chia làm 3 ần uống trong  ngày.

Những vị thuốc cùng tên:

1. Ngoài vị hoàng tinh lá nhỏ hẹp giới thiệu ở trên, tại Việt Nam và Trung Quốc còn dùng loại củ hoàng tinh hái ở những cây như Polgonatum multiflorum L., Polygonatum macropodium Turcz, Polygonatum filipes Merr.

   Những cây này nói chung chưa được nghiên cứu.

2. Cả hoàng tinh hay củ dong vẫn bán dưới hình thức luộc ở các chợ, ở các phố hoặc bán sống để về giã bột mang tên bột hoàng tinh, một loại a-rô-rút  (Arrow root). Cây này có tên khoa học Maranta arundinacea.

   Trong củ (thân rễ) có chứa chừng 16% tinh bột là lượng tối đa sau 12 tháng  trồng. Nếu để chậm không đào, lượng tinh bột sẽ giảm xuống 15% (sau 15 tháng), hoặc 10% sau 19-20 tháng.

   Củ bột hoàng tinh này không được dùng làm thuốc, mà chỉ làm thực phẩm hoặc dùng làm tá dược.

3. Một số loại hoàng tinh dễ nhầm với vị ngọc trúc giới thiệu sau đây (xem vị Ngọc trúc: http://dotatloi.com/nhung-cay-thuoc-va-vi-thuoc-viet-nam/ket-qua-tra-cuu/ngoc-truc).

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

focus Tỏa dương
09/06/2025 08:44 CH

- 蛇菰. Còn gọi là củ gió đất, củ ngọt núi, hoa đất, cu chó, cây không lá, xà cô. Tên khoa học Balanophora sp. Thuộc họ Gió đất (Balanophoraceae).

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Tơ mành - 風車藤 (风车藤). Còn có tên là mạng nhện, dây chỉ. Tên khoa học Hiptage madablota Gaertn, (Hiptage benghalensis (l.) Kurz.). Thuộc họ Măng rô (Malpighiaceae).
Tỏa dương - 蛇菰. Còn gọi là củ gió đất, củ ngọt núi, hoa đất, cu chó, cây không lá, xà cô. Tên khoa học Balanophora sp. Thuộc họ Gió đất (Balanophoraceae).
Tỏi - 大蒜. Tên khoa học Allium sativum L. Thuộc họ Hành tỏi (Liliaceae). Ta dùng củ tỏi (Bulbus Allii) là dò của cây tỏi mà ta vẫn dùng làm gia vị.
Tỏi đỏ - 紅蔥 (红葱). Còn gọi là tỏi lào, sâm cau, sâm đại hành, hành lào (Hòa Bình), tỏi mọi, kiệu đỏ, co nhọt (Lào). Tên khoa học Eleutherine subaphylla Gagnep. Thuộc họ La dơn (Iridaceae). Người ta dùng củ tươi hay phơi hoặc sấy khô của cây tỏi đỏ làm thuốc với tên khoa học Bulbus Eleutherinis subaphyllae.
Tỏi độc - 秋水仙. Còn gọi là colchique. Tên khoa học Colchicum autumnale L. Thuộc họ Hành tỏi (Liliaceae). Cây tỏi độc cho ta những vị thuốc sau đây: 1. Dò tỏi độc Tuber Colchici hay Bulbus Colchici là dò cây tỏi độc hái về phơi khô. 2. Hạt tỏi độc: Semen Colchici là hạt phơi hay sấy khô của cây tỏi độc. Ngoài cây tỏi độc - Colchicum autumnale L. ra, ta còn dùng dò và hạt của nhiều loài khác như Colchicum speciosum Stev... Colchicum variegatum L. hoặc cây Androcymbium gramineum Mac Bride cùng họ và cũng chứa hoạt chất colchixin.
Trà tiên - 羅勒疏柔毛變種 (罗勒疏柔毛变种). Còn gọi là é, é trắng, tiến thực. Tên khoa học Ocimum basilicum L. var. pilosum (Willd.) Benth. Thuộc họ Hoa môi Lamiaceae (Labiatae).
Trám - 橄欖 (橄榄). Còn gọi là cảm lãm, trám trắng, cà na, thanh quả, đêm ta lát (Cămpuchia). Tên khoa học Canarium album (Lour) Raensch (Canarium sinensis Rumph, Pimela alba Lour.). Thuộc họ Trám (Burseraceae). Thanh quả (Fructus Canarii) là quả trám trắng chín phơi hay sấy khô. Còn có tên là can thanh quả hay cảm lãm.
Trầm hương - 沉香. Còn gọi là kỳ nam, trà hương, gió bầu, bois d'aigle, bois d'aloes. Tên khoa học Aquilaria agallocha Roxb. (A. crassna Pierre). Thuộc họ Trầm (Thymelacaceae). Trầm hương (Lignum Aquilariae) là gỗ có nhiều điểm nhựa của cây trầm hương. Vì vị thuốc có mùi thơm, thả xuống nước chìm xuống do đó có tên gọi như vậy (trầm - chìm). Tên kỳ nam còn có tên kỳ nam hương thường dành cho loại trầm quý nhất. Giá đắt gấp 10-20 lần trầm hương.
Tràm và khuynh diệp Tên tràm và khuynh diệp hiện nay thường được dùng lẫn lộn để chỉ một số cây cho tinh dầu có mùi và công dụng gần giống nhau, hoạt chất căn bản cũng như nhau, nhưng tỷ lệ hoạt chất có khác nhau, do đó cần chú ý để tránh nhầm lẫn, cũng như khi cần giới thiệu với nước ngoài.
Tràm và tinh dầu tràm - 白千層 (白千层). Còn gọi là cây chè cay, chè đồng, smachchanlos, - smach tachah (Campuchia), cajeputier (Pháp). Tên khoa học Melaleuca leucadendron L. Thuộc họ Sim (Myrtaceae). Cây tràm cho ta những vị thuốc sau đây: (1) Cành non mang lá tươi hay phơi khô; (2) Tinh dầu tràm thường gọi là tinh dầu khuynh diệp; (3) Tinh dầu tràm tinh chế.
Trân châu - 珍珠. Còn có tên là ngọc trai, bạng châu. Trân châu (Margarita, Perla, Pearl) là hạt ngọc trong nhiều loài trai như con trai Pteria (Pinctada) martensii Dunker (Avicula martensii Dunker) thuộc họ Trân châu (Aviculidae hay Pteridae).
Trẩu - 石栗. Còn gọi là cây dầu sơn, ngô đồng, mộc đu thụ, thiên niên đồng, bancoulier, abrasin. Tên khoa học Aleurites montana (Lour.) Wils. Thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae). Cây trẩu cho ta một loại dầu sơn rất quý dùng trong nước và xuất khẩu. Khô dầu trẩu là một nguồn phân bón ruộng, có tác dụng trừ sâu.
Trầu không - 蒟醬 (蒟酱). Còn gọi là trầu, thược tương, mô-lu (Cămpuchia), hruè êhang (Buôn Mê Thuột). Tên khoa học Piper betle L. (Piper siriboa L.). Thuộc họ Hồ tiêu (Piperaceae).
Tri mẫu - 知母. Tên khoa học Anemarrhena aspheloides Bunge. Thuộc họ Hành tỏi (Liliaceae). Tri mẫu (Rhizoma Anemarrhenae) là thân rễ phơi hay sấy khô của cây tri mẫu Anemarrhena aspheloides thuộc họ Hành tỏi (Liliaceae). Tri mẫu vốn tên là chi mâu do chi mâu là trứng con kiến, vì lúc mầm cây này mọc lên trông giống trứng con kiến, cho nên gọi tên. Sau đọc chệch thành tri mẫu.
Trinh nữ hoàng cung - 西南文殊蘭 (西南文殊兰). Còn gọi là Hoàng cung trinh nữ - Tây nam văn châu lan - Thập bát học sĩ (Trung Quốc), Tỏi Thái Lan. Tên khoa học Crinum latifolium L. Thuộc họ Thuỷ tiên Amaryllidaceae. Tên trinh nữ hoàng cung do cây này được dùng để trị bệnh cho những phụ nữ còn trinh tiết được tuyển chọn vào cung vua nhưng không được vua chú ý nên mắc một số bệnh riêng của những phụ nữ sống trong cùng hoàn cảnh.
Trúc nhự - 竹茹. Còn gọi là trúc nhị thanh, đạm trúc nhự. Tên khoa học Caulis Bvambusae in Taeniis. Trúc nhự là vị thuốc chế bằng cách cạo vỏ xanh của cây tre (Bambusa sp.), cây vầu (Phyllostachys sp.) và nhiều loại tre bương khác thuộc họ Lúa (Gramineae), sau đó cạo lớp thân thành từng mảnh mỏng hay sợi mỏng, rồi phơi hay sấy khô.
Trứng cuốc - 斑果藤. Còn có tên là mắc năm ngoa (Viêntian), con go, mang nam bo (Thổ). Tên khoa học Stixis elongata Pierre. Thuộc họ Màn màn (Capparidaceae).
Tử uyển - 紫菀. Còn gọi là thanh uyển, dã ngưu bàng. Tên khoa học Aster tataricus L. Thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae). Tử uyển (Radix Asteris) lá rễ và thân phơi hay sấy khô của cây tử uyển. Từ là tía, uyển là mềm; vì tử uyển là một vị thuốc có màu tím lại mềm.
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]