Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

CÂY LÁ NGÓN - 斷腸草 (断肠草)

Còn gọi là co ngón (Lạng Sơn), thuốc dút ruột - hồ mạn trường - đại trà đằng, hồ mạn đằng, hoàng đằng, câu vẫn, đoạn trường thảo.

Tên khoa học Gelsemium elegans Benth, (Medicia elegans Gardn, Leptopteris sumatrana Blume).

Thuộc họ Mã tiền (Loganiaceae).

CÂY LÁ NGÓN, 斷腸草, 断肠草, co ngón, thuốc dút ruột - hồ mạn trường - đại trà đằng, hồ mạn đằng, hoàng đằng, câu vẫn, đoạn trường thảo, Gelsemium elegans Benth, Medicia elegans Gardn, Leptopteris sumatrana Blume, họ Mã tiền, Loganiaceae

Lá ngón - Gelsemium elegans

Cây lá ngón được coi lá loại cây độc nhất trong nước ta. Người ta cho rằng chỉ cần ăn 3 lá là đủ chết người.

Tên cây ngón còn dùng để chỉ một cây khác nữa có tên khoa học là Pterocaryatonkinensis Dode thuộc họ Hồ đào (Juglandaceae) sẽ giới thiệu ở sau. Cần chú ý tránh nhầm lẫn.

A. MÔ TẢ CÂY

Đoạn là đứt, trường là ruột, tên đoạn trường thảo vì người ta cho rằng uống vị này sẽ bị đứt ruột mà chết.

Đoạn trường thảo hay cây lá ngón là một loại dây mọc leo, thân và cành không có lông, trên thân hơi có khía dọc. Lá mọc đối, hình trứng thuôn dài, hay hơi hình mác, đầu nhọn, phía cuống nhọn hay hơi tù, mép nguyên, bóng, nhẵn, dài 7-12cm, rộng 2,5-5,5cm. Hoa mọc thành xim ở đầu cành hay ở kẽ lá. Cánh hoa màu vàng. Có tài liệu nói hoa màu trắng, nhưng bản thân tôi đã kiểm tra lại là màu vàng (tại Lạng Sơn và các nơi khác: Sapa, Hà Giang). Mùa hoa tháng 6-8-10. Quả là một nang, dài, màu nâu hình thon, dài 1cm, rộng 0,5cm. Hạt nhỏ, quanh mép có rìa mỏng màu nâu nhạt, hình thận.

B. PHÂN BỐ, THU HÁI VÀ CHẾ BIẾN

Cây lá ngón khá phổ biến ở miền rừng núi Việt Nam. Người ta thường không dùng làm thuốc, mà chỉ dùng để tự tử hay với mục đích đầu độc. Các tỉnh miền núi như Hòa Bình, Hà Tây, Lào Cai, Cao bằng, Tuyên Quang, Hà Giang đều có. Còn có ở một số nước ở vùng nhiệt đới và á nhiệt đới châu Á. Ở Trung Quốc người ta thấy ở Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Tứ Xuyên. Bắc châu Mỹ có loài Gelsemium sempervirens Art.

Nhân dân ta hay dùng lá như trên đã nói, trái lại Trung Quốc hay dùng rễ và bán tại các hiệu thuốc để làm thuốc chữa hủi hay chữa bệnh nấm ở tóc (teigne). Cũng được dùng với mục đích đầu độc.

C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC

   a) Từ loài cây ngón mọc ở bắc châu Mỹ - Gelsemium sempervirens nhiều tác giả đã chiết ra được nhiều loại ancaloit đặt tên là gelsemin C20H22O2N2 có tinh thể, độ chảy 178o, chất gelmixin C19H24O3N2 (lúc trước có tác giả xác định độ chảy 171o) chất sempecvirin và sempecvin. Hai chất sau tương tự với nhau nhưng độ chảy khác nhau. Tất cả đều có độc tính rất mạnh, gần như tác dụng của strycnin, chất ancaloit trong mã tiền.

   b) Năm 1931, Triệu Thừa Cố (Trung Quốc sinh lý học tạp chí 1931, 5: 334;  1936. 10: 79) đã nghiên cứu rễ, thân rễ và cành của cây đoạn trường thảo Trung  Quốc (Gelsemium elehgans) cùng loại với ta, đã chiết xuất được 4 loại ancaloit có tính chất và đặt tên như sau:

   Kumin C20H22O2N2, độ chảy 170o, D = -265o, dễ tan trong cồn, khó tan trong ête, không tan trong ête dầu hỏa và nước, tan trong axit sunfuric đặc cho dung dịch không màu, nếu thêm MnO2 sẽ chuyển màu tím nhạt, nhưng nếu thêm kali bicromat sẽ cho màu xanh vàng. Đây là thành phần chủ yếu của cây ngón, chất này không độc lắm.

   Kuminin vô định hình, không màu, dễ tan trong ête và trong nhiều dung môi hữu cơ khác, khó tan trong nước, từ dung dịch ête để bốc hơi sẽ cho chất có độ chảy thay đổi nhưng trên 115o. Muối clohydrat có tinh thể không màu hình trụ, độ chảy trên 300o, tan trong axit sunfuric đặc cho dung dịch không màu, thêm kali bicromat lúc đầu cho màu tím, sau chuyển màu nâu và cuối cùng màu xanh.

   Kuminixin vô định hình, muối clohydrat tan trong nước, có năng suất quay cực  trái.

   Kuminidin có tinh thể hình trụ không màu độ chảy 200o (?) có thể tan nhiều trong dung môi hữu cơ và nước, cho muối clohydrat tan trong nước, hòa tan trong axit funfuric đặc sẽ cho dung dịch không màu, khi thêm kali bicromat sẽ chuyển màu xanh vàng và không xuất hiện màu tím.

Tỷ lệ cả bốn loại ancaloit trên trong nguyên liệu là 0,3%. Từ lá ngón Triệu Thừa Cố cũng lấy ra được 4 ancaloit là gelsemin, kumin, kuminin và một  ancaloit mới đặt tên là kaunide C21H24O5N2, độ chảy 315o. Muối clohydrat có độ chảy 318o, chất ancaloit này có tác dụng làm yếu cơ và ức chế hô hấp.

   c) Ba tác giả là Kỷ Dục Phong, Cao Di Sinh và Hoàng Diệu Tăng (1938 J Am. Chem. Soc. 60: 1723) đã báo cáo rằng chất mà Triệu Thừa Cố gọi là kuminin và không có tinh thể thực ra không thuần khiết. Từ chất này đã tách ra được chất gelsemin và đính chính rằng chất kiminidin có độ 299o và có công thức là C19H25O4N2.

   Tóm lại qua các tác giả trên, trong cây ngón Gelsemium elegans có gelsemin và kuminidin có tinh thể.

   d) Năm 1936 F Guichard (Compte rendu du X congrès de la For. Eastern Association of tropical medecine, Hanoi, 1: 607-612) nghiên cứu từ cây lá ngón mọc ở Việt Nam và đã chiết từ lá, vỏ thân và rễ cây ấy những chất giống như những chất trong lá ngón Trung Quốc. Ông đã thấy chất kumin cả trong quả và hạt, và ông còn tìm thấy một chất có huỳnh quang đối với ngoại tím, không tan  trong các axit và ghi là thuộc nhóm chất esculetin.

   Nhưng dù đã nghiên cứu như vậy, việc phát hiện các chất độc trong lá ngón khi bị ngộ độc còn khó khăn, vì phản ứng đặc hiệu tiến hành trên những chất lấy được ở cơ thể người bị ngộ độc, nhất là khi chỉ ăn có 3 lá là một việc không dễ dàng.

   Năm 1953, M. M. Janot ở Paris, nghiên cứu thành phần ancaloit trong từng phần những mẫu cây lá ngón hái ở miền Nam Việt Nam đã thấy trong lá có gelsemin, trong rễ có kumin và toàn thân có sempervenrin (như vậy là semperve- rin được phát hiện có trong một loài Gelsemium khác loài Gelsemium sémperveren mọc ở Bắc Mỹ).

   Năm 1977, Hoàng Như Tố và cộng sự (Tài liệu học tập tham khảo Cục Quân y - II,  1977) đã tiến hành thí nghiệm lại theo như Janot nhưng đối với loài lá ngón mọc ở miền Bắc Việt Nam đã thống nhất thấy lá có gelsemin, rễ có kumin, còn chưa xác định được rõ ràng kumidin và sempervenrin.

D. TÁC DỤNG DƯỢC LÝ

Trong cây lá ngón Bắc Mỹ, thành phần chủ yếu là chất gelmixin có độc tính rất mạnh, với liều thấp trên động vật có vú, trước khi thấy hiện tượng ức chế hô hấp thường thấy một thời kỳ hưng phấn ngắn.

Trong cây lá ngón của ta và Trung Quốc có thành phần khác nhưng so với tác dụng của những ancaloit của cây lá ngón Bắc Mỹ thì nhiều phần giống nhau. Chất kumin và kuminin ít độc hơn, gần giống tác dụng của gelsemin, chất kuminixin rất độc, nhưng chất gelsemixin lại độc hơn nữa ... Nhỏ dung dịch gelsemin và gelsemixin lên mắt thì thấy hiện tượng dãn đồng tử còn kumin và kuminin không làm dãn đồng tử.

Ngoài thành phần hóa học, Hoàng Như Tố còn kiểm tra truyền thuyết của dân gian nói "chỉ cần ăn 3 lá ngón là đủ chết" đồng thời tìm cơ chế tác dụng của lá ngón để tìm cách chống độc có hiệu quả đã đi tới một số kết luận sau:

   1. Liều độc. Liều độc LD50 đối với chuột nhắt trắng của rễ là 102mg/kg thể trọng (rễ chiết bằng cồn 90o), của lá là 600mg/kg (tươi chiết bằng nước), 200 mg/kg (lá khô chiết bằng nước), 150mg/kg (lá khô chiết bằng cồn 70o), 89mg/kg (lá khô chiết bằng cồn 90o), của ancaloit toàn phần chiết từ lá khô là 200mg/kg, trong khi đó của gelsemin là 140mg/kg và kumin thì không độc. Như vậy lá ngón có độc, nhưng không đến mức 3 lá đủ chết người như dân gian thường nói.

   2. Tác dụng độc của lá ngón không đặc hiệu trên hệ thống thần kinh, gây nên co giật và chết do ngừng hô hấp trong một trạng thái thiếu oxy rõ rệt.

   3. Nghiên cứu về mặt chống độc cho phép kết luận cơ chế tác dụng của các hoạt chất cây lá ngón chủ yếu đánh vào các men hô hấp gây sự rối loạn trong tế bào dẫn tới sự thiếu oxy nghiêm trọng gây nên các hiện tượng co giật cơ và liệt. Phương hướng dùng các thuốc ngăn cản sự ức chế men và bảo trợ men đã dẫn tác giả tìm ra được tính chống độc của ATP. Khi dùng ATP để ngăn ngừa cũng như để điều trị ngộ độc bằng lá ngón đã giảm tỷ lệ chết của chuột nhắt xuống từ 58% còn 25% đã cứu được tất cả các thỏ làm thí nghiệm khi đã bị ngộ độc bằng liều chết của lá ngón.

E. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Nhân dân Việt Nam không dùng cây ngón làm thuốc, chỉ giới thiệu ở đây để chúng ta biết mà tránh và có thể phát hiện khi bị ngộ độc.

Tại Bắc Mỹ và Trung Quốc, người ta dùng rễ chữa bệnh động kinh và giảm đau nhưng cũng rất ít dùng.

Chú thích:

   Một vài vùng ở nước ta còn gọi một cây nữa là cây lá ngón. Sự thật cây lá ngón nói trên vào loại độc nhất. Cây lá ngón giới thiệu đây còn gọi là cây cơi hay cây lá cơi (phong dương) có tên khoa học là Pterocarya toniknensis Dode hay Pterocarya stenoptera var. tonkinensis Franchet, thuộc họ Hồ đào (Juglandaceae).

   Đây là một cây nhỡ, cao chừng 5-6m, lá kép lông chim nhẵn gồm 3 đến 6 đôi lá chét mọc đối hay gần như đối, không cuống, phía cuống hơi không đều, mép lá răng cưa, nhưng lá chét phía trên to rộng hơn, bóng nhẵn, những lá chét dưới có mặt trên nhẵn, mặt dưới hơi có lông. Hoa cái mọc thành bông nhiều hoa mọc sít nhau, hơi có lông. Quả mọc thành bông thõng xuống, dài tới 45cm hay hơn. Hạt nhỏ dài 15-17mm, rộng 2-3mm hơi có lông, có 2 cánh hẹp.

Cây này mọc hoang khắp nơi ở miền Bắc nước ta, nhiều nhất vùng rừng núi, có cả ở miền Trung và ở Lào. Nhân dân thường dùng lá giã nát lấy nước để duốc cá, có khi người ta dùng lá nấu nước nhuộm màu nâu kaki. Chưa thấy có tài liệu nghiên cứu.

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

focus Ruột gà
28/04/2025 01:42 SA

- 假馬齒莧 (假马齿苋). Còn gọi là rau đắng, rau sam trắng, rau sam đắng, ba kích. Tên khoa học Bacopa monnieri (L.) Pennell, Herpestis monniera (L. ) H. B. K (Gratiola monniera L., Septas repens Lour., Bramia indica Lamk). Thuộc họ Hoa mõm chó (Scrofulariaceae).

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Hy thiêm - 豨簽 (豨莶). Còn gọi là cỏ đĩ, cứt lợn, hy kiểm thảo, hy tiên, niêm hồ thái, chư cao, hổ cao, chó đẻ, nụ áo rìa. Tên khoa học Siegesbeckia orientalis L. (S. glutinosa Wall., Minyranthes heterophylla Turcz.). Thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae). Cây này đầu tiên thấy dùng ở nước Sở (một nước cổ ở miền nam Trung Quốc); dân nước này gọi lợn là hy, gọi cỏ đắng cay có độc là thiêm, vì khí vị cây này như mùi lợn, do đó có tên. Chữ cứt lợn là dịch nghĩa Việt của tên cây, nhưng chỉ cần chú ý tên cứt lợn còn dùng chỉ một cây khác thuộc họ Cúc (xem vị này ở mục các thuốc chữa bệnh phụ nữ) để tránh nhầm lẫn trong khi sử dụng. Tên cỏ đĩ vì hoa cây này có chất dính, khi người ta đi qua, nó dính theo người ta. Hy thiêm thảo (Herba Siegesbeckiae) là toàn cây hy thiêm phơi hay sấy khô.
Ích mẫu - 益母草. Còn gọi là ích mẫu thảo, sung úy, chói đèn. Tên khoa học Leonurus heterophyllus Sw. Thuộc họ Hoa môi Lamiaceae (Labiatae). Cây ích mẫu cung cấp cho ta 2 vị thuốc: Ích mẫu hay ích mẫu thảo (Herba Leonuri) là toàn bộ phận trên mặt đất phơi hay sấy khô của cây ích mẫu; Sung úy tử (Fructus Leonuri) là quả chín phơi hay sấy khô của cây ích mẫu.
Ích trí nhân - 益智仁. Còn gọi là ích trí, ích trí tử. Tên khoa học Alpinia oxyphylla Miq. Thuộc họ Gừng (Zingiberaceae). Ích trí nhân (Fructus Alpiniae oxyphyllae) là quả gần chín phơi hay sấy khô của cây ích trí (Alpinia oxyphylla Miq.). Vì vị thuốc giúp ích tỳ vị cho nên có tên như thế.
Ké hoa đào - 地桃花. Còn gọi là phan thiên hoa, tiêu phan thiên hoa, nha khac mòn (Thái), bái lương, bái cúc, vái, địa đào hoa, niêm du tử, dã miên hoa. Tên khoa học Urena lobata L. (Urena monopetala Lou., Urena sinuata L., Urena scabruiscula DC.). Thuộc họ Bông (Malvaceae).
Ké hoa vàng - 白背黄花稔. Còn gọi là ké đồng tiền, bạch bối hoàng hoa nhậm, chỗi đực, khát bo lương (Thái). Tên khoa học Sida rhombifolia L. (Sida alnifolia Lour.). Thuộc họ Bông (Malvaceae).
Kê nội kim - 雞內金 (鸡内金). Còn gọi là kê hoàng bì, kê chuẩn bì, màng mề gà. Tên khoa học Corium Stomachichum Galli. Kê nội kim là lớp màng màu vàng phủ mặt trong của mề hay dạ dày con gà Gallus domesticus Brisson thuộc họ Phasianidae.
Keo nước hoa - 金合歡 (金合欢). Còn gọi là keo ta, mân côi, mak ku kong, kum tai (Lào), sambor meas (Cămpuchia), cassie du Levant. Tên khoa học Acacia farnesiana Willd. (Mimosa farnesiana L.). Thuộc họ Trinh nữ (Mimosaceae).
Kha tử - 訶子 (诃子). Còn gọi là cây chiều liêu, myrobolan de commerce. Tên khoa học Terminalia chebula Retz. (Terminalia reticulata Roth., Myrobalanus chebula Gaertn.). Thuộc họ Bàng (Combretaceae). Kha tử (Fructus Teminaliae) là quả chín sấy hay phơi khô của cây chiều liêu hay kha tử.
Khế - 陽桃 (阳桃). Còn gọi là khế ta, khế cơm, khế chua, khế giang, ngũ lãng tử, dương đào, ngũ liêm tử. Tên khoa học Averrhoa carambola L.. Thuộc họ Chua me đất (Oxalidaccae). Vì quả khế có 5 cạnh nên gọi là ngũ liễm (liễm là thu lại, tụ lại).
Khế rừng - 小葉紅葉藤 (小叶红叶藤). Còn gọi là dây quai xanh, cây cháy nhà. Tên khoa học Rourea microphylla Planch. Thuộc họ Khế rừng (Connaraceae).
Khiên ngưu - 牽牛. Còn gọi là hắc sửu, bạch sửu, bìm bìm biếc, kalađana (Ấn Độ). Tên khoa học Ipomoea hederacea Jacq (Pharbitis hederacea Choisy). Thuộc họ Bìm bìm (Convolvulaceae). Khiên ngưu tử (Pharbitis hay Semen Pharbitidis) là hạt phơi khô của cây khiên ngưu hay bìm bìm biếc. Cây khiên ngưu còn cho ta vị thuốc nhựa khiên ngưu (Resina Pharbitidis). Khiên là dắt, ngưu là trâu là vì có người dùng vị thuốc này khỏi bệnh, dắt trâu đến tạ ơn người mách thuốc. Hắc sửu là chỉ hạt màu đen, bạch sửu là hạt màu trắng.
Khoai lang - 番薯. Còn gọi là phan chư, cam thự, hồng thự, cam chư. Tên khoa học Ipomoea batatas (L.) Poir. Thuộc họ Bìm bìm (Convolvulaceae).
Khoai nưa - 蒟蒻. Còn gọi là củ nưa, khoai na. Tên khoa học Amorphophalus rivieri Dur. Thuộc họ Ráy (Araceae).
Khoai riềng - 蕉芋. Còn gọi là cây dong riềng, khoai đao, khương vu, arrow - root du Queensland, fécule de Tolomane. Tên khoa học Canna edulis Ker. Thuộc họ Dong riềng (Canaceae).
Khoai tây - 馬鈴薯 (马铃薯). Tên khoa học Solanum tuberosum L. Thuộc họ Cà (Solanaceae). Khoai tây chủ yếu là một cây lương thực; ở đây chúng tôi chỉ chú ý tới hiện tượng đau bụng, đi ngoài do ăn khoai tây mọc mầm và dùng chất gây đau bụng đi ngoài ấy trong chữa bệnh.
Khương hoạt - 羌活. Tên khoa học Rhizoma Notopterygii. Theo các tài liệu thì khương hoạt và độc hoạt cùng là một loài, vì sản xuất ở Tây Khương, cho nên gọi là Khương hoạt. Rễ cái là độc hoạt, còn rễ con là khương hoạt. Thực tế độc hoạt là một vị khác. Gần đây, một số tác giả (Trung Quốc) đã xác định khương hoạt hay xuyên khương, trúc tiết khương, hồ vương sứ giả (Notopterygium incisium Ting Mss.) thuộc họ Hoa tán Apiaceae (Umbelliferae). Ngoài ra còn có vị phúc thị khương hoạt hay tàm khương, đại đầu khương (Notopterygium forbesii Boiss.) cùng thuộc họ Hoa tán Apiaceae (Umbelliferae).
Kiến kỳ nam Còn gọi là trái bí kỳ nam, kỳ nam kiến, ổ kiến, kỳ nam gai. Tên khoa học Hydnophytum formicarum Jack. (lá rộng), Myrmecodia armata DC. (lá hẹp). Thuộc họ Cà phê (Rubiaceae).
Kim ngân - 金銀花. Còn gọi là Nhẫn đông. Tên khoa học Lonicera japonica Thunb. Thuộc họ Cơm cháy (Caprifoliaceae). Cây kim ngân cho ta các vị thuốc: 1. Hoa kim ngân hay kim ngân hoa - Flos Lonicerae là hoa phơi hay sấy khô của cây kim ngân. 2. Cành và lá kim ngân - Caulis cum folium Lonicerae là cành và lá phơi hay sấy khô của cây kim ngân.
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]