Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

CÂY DẦU GIUN - 土荆芥

Còn có tên là cây rau muối dại, cây cỏ hôi, cây thanh hao dại, thổ kinh giới.

Tên khoa học Chenopodium ambrosioides L. (Chenopodium anthelminticum A. Gray.).

Thuộc họ Rau muối (Chenopodiaceae).

cây dầu giun, 土荆芥, cây rau muối dại, cây cỏ hôi, cây thanh hao dại, thổ kinh giới, Chenopodium ambrosioides L., Chenopodium anthelminticum A. Gray., họ Rau muối, Chenopodiaceae

cây dầu giun, 土荆芥, cây rau muối dại, cây cỏ hôi, cây thanh hao dại, thổ kinh giới, Chenopodium ambrosioides L., Chenopodium anthelminticum A. Gray., họ Rau muối, Chenopodiaceae

Cây dầu giun - Chenopodium ambrosioides

Chú thích về tên: Tên cây dầu giun là tên mới đặt vào khoảng năm 1939-1940, vì cây này cho tinh dầu chữa giun. Có chữ dầu để phân biệt với cây sử quân tử có tên khác là cây giun. Tên thổ kinh giới là tên Trung Quốc giới thiệu. Cần biết để tránh nhầm lẫn.

A. MÔ TẢ CÂY

Cây dầu giun là một loại cỏ sống hàng năm, nhưng cũng có khi ở đất tốt và cao ráo mọc 2-3 năm. Cao chừng 1-1,5m hay hơn. Vỏ lá, thân và hoa có mùi hăng đặc biệt. Lá có cuống, mọc cách dài thon, 1 đầu nhọn, màu lục nhạt, phiến lá không phẳng, chung quanh có răng cưa thưa và không rõ rệt, dài chừng 35-75mm, rộng 13-25mm. Trên lá có lông, thường ở các gân lá, nhất là ở mặt dưới. Hoa mọc tập trung thành xim đơm (glomerule) ở kẽ lá. Giữa chùm là hoa đực hay hoa lưỡng tính, xung quanh có hoa cái nhỏ và không có cuống. Đường kính hoa độ 1mm, bao hoa có cánh hình bầu dục, hoa có 5 nhị, nhưng có khi chỉ có 3 hoặc 2, bầu hình bầu dục. Quả là những bế quả màu lục nhạt hay nâu nhạt, hình cầu, đường kính chừng 1,5mm, cùi mỏng, có lá đài không rụng, trong chứa 1 hạt nhỏ đen và bóng. Vị hắc đặc biệt.

Thân cây non, lá, bầu hoa có lông thuộc 3 loại: Lông che chở đa tế bào, lông che chở đa tế bào nhưng tế bào sau cùng lớn hơn, thành góc với các tế bào khác và lông bài tiết, chân ngắn gồm 1 hay 2 tế bào, tận cùng bằng 1 tế bào phồng to lên.

Hái toàn cây và hạt để cất tinh dầu làm thuốc chữa giun.

B. PHÂN BỐ, THU HÁI VÀ CHẾ BIẾN

Cây mọc tự nhiên ở nhiều nước vùng nhiệt đới, có mọc ở Châu Âu (vùng Địa Trung  Hải). Tại Việt Nam mọc khắp Bắc Bộ, Trung Bộ, nhưng hình như tại Bắc Bộ mọc khỏe và dễ hơn các nơi.

Cây dầu giun ưa đất phù sa bồi. Ở Bắc Bộ, mọc tự nhiên ở hai bên bờ sông Hồng, từ Vĩnh Phúc tới Nam Hà, ven biển tỉnh Thái bình, Hải Phòng (Đồ Sơn). Mọc vào các tháng 6, tháng 7 thành từng bãi rất rộng. Ở ven sông vùng Hà Nội có rất nhiều. Những nơi cao mát như Sapa, Đà lạt cũng có cây dầu giun mọc hoang.

Cây mọc dại từ đầu mùa Xuân đến giữa mùa Hè thì ra hoa kết quả. Đến tháng 8 tháng 9, quả chín hạt rụng xuống đất. Rồi cây bị đất phù sa tràn ngập, thối chết, những hạt bị vùi xuống đất đến mùa Xuân lại mọc lên.

Trước đại chiến thứ hai (1939-1945) không ai khai thác ở Việt Nam. Nhưng từ năm 1939 được khai thác và được nhiều nơi thí nghiệm trồng tỉa, Sơn Cốt, Phổ Yên (Bắc Thái), Xuân Mai, Hoài Đức (Hà Tây), bãi Phúc Xá (Hà Nội). Hiện nay việc trồng đang được phát triển rất mạnh.

Qua việc trồng tỉa đã có những kinh nghiệm sau đây:

    Đất trồng: Cần thật tốt, ưa đất cát, đất phù sa. So sánh hiệu suất của 3 nơi đều hái vào tháng 7 trên một diện tích bằng nhau là 360m2.

    Như vậy 1 hecta có thể thu hoạch 1 năm từ 2.700kg tới 18.000kg cây tươi và từ 90kg tới 240kg hoa quả tươi có thể dùng để cất tinh dầu. Đất tốt có thể  tới 21.600kg.

    Cách cấy: Hoặc gieo hạt rồi đánh cây con. Lối gieo hạt thẳng tốt hơn, cây mọc khỏe, nhiều cành lá, cao tốt hơn. Nếu cấy thì cây thấp, chóng ra hoa và kết quả.

    Mùa gieo hạt tốt nhất vào tháng 12 hoặc tháng 1 năm sau, gieo xong gặp mưa phùn mọc rất khỏe. Có thể gieo sớm hơn (tháng 10) hoặc muộn hơn một ít (thán 2-3). Gieo hạt chừng 8-15 hôm thì mọc. Vì hạt nhỏ nên khi gieo cần trộn với 5 phần đất. Nếu gieo như gieo mạ thì 1 sào (360m2) cần 2,5kg hạt, nếu trồng hố cách nhau 50cm thì 1 sào cần 1kg hạt.

    Mùa hái: Từ lúc gieo hạt đến lúc quả chín phải 6 tháng. Nhưng sau 4 tháng đã có thể cắt cây để cất tinh dầu. Hoặc cắt cả cây (đối với những nơi phải tranh thủ trước khi ngập nước) hoặc cắt ngọn có hoa, gốc và cành còn lại sẽ mọc lá mới, thu hoạch lần thứ 2.

    Nên cắt vào lúc khô ráo, trước khi quả chín.

    Cây hái về phải cất ngay, vì để lâu tinh dầu bốc hơi và cây có thể bị thối. Nếu không cất tinh dầu kịp cần phơi trong mát, tránh chất thành đống.

    Hiệu suất cao nhất vào tháng 5 tháng 6. Đây là hiệu suất của 1 hecta qua các tháng.

    Trọng lượng cây tươi trung bình 1 hecta cắt được 3.400kg cây cất được từ 1/2 lít tới 30 lít tinh dầu.

Đất trồng

Cành + lá tươi

Hoa + quả tươi

Đất đồi (đát vàng, không có đá ong)

Đát phù sa cũ, đất thịt cao, có đát sét lẫn cát

Phù sa mới (đất cát pha)

90kg

320kg

580kg

30 kg

5kg

8kg

Nơi trồng

Tháng hái

2

3

4

5

Đất đồi

Đất vườn

Đất phù sa mới

600 kg

900 kg

1.350 kg

1.800 kg

2.400 kg

3.900 kg

2.700 kg

3.600 kg

5.400 kg

4.200 kg

5.100 kg

21.600 kg

C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Hoạt chất của cây dầu giun là tinh dầu giun.

Tinh dầu giun cất từ cả cây hoặc từ hạt. Hiệu suất của hạt từ 0,65%-1%, hiệu suất của cây chỉ chừng 0,35%.

Vì tinh dầu rất hay hỏng, cho nên cần cất mau, từng mẻ nhỏ một. Nếu đun nóng quá, tinh dầu bị phá hủy trước khi bốc lên.

Tinh dầu giun mùi hăng, vị nóng, đắng, màu vàng nhạt. Tỷ trọng ở 15o từ 0,965 đến 0,990, tan trong 3 đến 10 phần rượu 70o, rất tan trong ête và clorofoc, hơi tả tuyền (αD từ -4o đến 8o5) 1g = L giọt.

Thành phần chủ yếu của tinh dầu giun là atcaridol (ít nhất phải có 65%). Tinh dầu của hoa và hạt có chứa nhiều hơn (trong các tháng 5, 6, 7, 8 tỷ lệ có thể lên tới 75-85%).

Ngoài ra, còn chất ximen (22-35%) cacbua khác, ít campho, đimetyl etylen, oxyt, axit butylic và glycol. Chất atcaridol là một peroxyt có nhân para-ximen, rất dễ bị phá hủy khi cất tinh dầu.

Giá trị của tinh dầu giun do tỷ lệ atcaridol quyết định.

Công thức atcaridol:

công thức atcaridol

Định lượng atcaridol: Muốn định lượng atcaridol, ta dựa trên tính chất oxy hóa của nó. Trong tinh dầu hòa tan vào axit axêtic ở môi trường axit clohydric, chất atcaridol giải phóng iốt của kali iođua theo tỷ lệ thuận. Định lượng iốt giải phóng ta có thể tính được lượng atcaridol.

Cách tiến hành:

    Loại hết nước trong tinh dầu bằng cách ngâm với Na2SO4 khan, lấy một trọng lượng Pg chừng 2,5g tinh dầu cân thật đúng, hòa tan vào trong một lượng axit axêtic kết tinh được để có thể đủ một thể tích tổng số là 50ml.

    Trộn 3ml dung dịch KI ( có 83g KI trong 100ml) với 5ml HCl đặc (Tt) và 10ml axit axêtic kết tinh được (Tt).

    Cho hỗn hợp này vào trong tủ lạnh hay một hỗn hợp sinh hàn ở nhiệt độ 0o đến 3o. Khi hỗn hợp này đã thật lạnh rồi, cho thật nhanh 5ml dung dịch tinh dầu trong axit axêtic chuẩn bị trên kia và đã chứa sẵn trong ống nhỏ giọt Mohr. Nút kỹ và để hỗn hợp trong tủ lạnh 5 phút.

    Thêm vào 5ml cacbon têtraclorua. Định lượng iôt giải phóng bằng dung dịch N/10 natri hyposunfit.

    Làm một dung dịch đối chứng khác (không có tinh dầu) để so sánh. Chỉ trộn 3ml dung dịch KI, 5ml HCL đặc, 15ml axit axêtic kết tinh được và 20ml nước cất. Cho hỗn hợp này vào tủ lạnh cùng với hỗn hợp để định lượng.

    Thêm 5ml cacbon têtraclorua và dung dịch N/10 natri hyposunfit cho tới khi hết màu. Ví dụ N và n ml dung dịch N/10 natri hyposunfit đã dùng để dịnh lượng dung dịch so sánh và dung dịch để định lượng.

    Tỷ lệ atcaridol trong 100g tinh dầu là: (N - n) = 6,65 / p

Tinh dầu giun dùng làm thuốc phải chứa ít nhất 60% và nhiều nhất 80% atcaridol.

D. TÁC DỤNG DƯỢC LÝ

Tinh dầu độc ở liều tương đối thấp do tác dụng suy yếu đối với tim, nó còn có tác dụng hạ huyết áp và hại đến nhịp thở.

Liều mạnh, nó làm ống tiêu hóa bị xót hay buồn nôn, nôn mửa, chóng mặt, ù tai, hoa mắt, lạnh đầu ngón chân ngón tay.

Có trường hợp chết với hiện tượng trung khu hô hấp bị tê liệt.

Nó rất độc đối với giun: 1 dung dịch nước có 1/5.000 trọng lượng tinh dầu giun cũng đủ làm tê liệt giun đũa.

Đối với giun của ngựa rất khó chữa mà cũng chỉ cần một liều 16-20ml để tiêu diệt hết.

Chất atcaridol tác dụng mạnh gấp 2 lần tinh dầu. Liều độc của atcaridol là 300mg cho 1kg thân thể của thỏ, 600mg đối với chuột bạch và 500mg đối với ếch. Cá chết sau 12 giờ trong một dung dịch 1/8.000.

Tinh dầu giun có tác dụng đối với giun đũa, giun mỏ nhưng không tác dụng đối với sán và giun kim.

Tóm lại tinh dầu giun và atcaridol có tác dụng đối với giun đũa nhưng độc và nguy hiểm cho nên không nên dùng đối với người già, đàn bà có thai, người yếu.

E. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Ngày uống 30-50 giọt chia làm 2 hay 3 lần uống (nhỏ trên miếng đường) hai giờ sau khi uống hết tinh dầu, uống một liều thuốc tẩy muối magiê sunfat hoặc uống cả 30 hay 50 giọt ngay một lần hòa tan trong 30ml dầu thầu dầu.

Trẻ em tùy theo tuổi, uống 10-20 giọt 1 ngày.

Thuốc có độc, dùng phải cẩn thận.

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

focus Hồng bì
16/04/2025 09:48 CH

- 黄皮. Còn gọi là hoàng bì. Tên khoa học Clausena lansium (Lour.) Skeels [Clausena wampi (Blanco) Oliv.]. Thuộc họ Cam quít (Rutaceae).

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Cây hoa hòe - 槐花. Còn gọi là hòe mễ, hòe hoa mễ, hòe hoa. Tên khoa học Sophora japonica L. Thuộc họ Cánh bướm Fabaceae (Papilionaceae). Người ta dùng hoa hòe hay hòe hoa (Flos Sophorae japonicae) là hoa chưa nở phơi hay sấy khô của cây hòe. Nhiều khi người ta dùng cả quả hòe hay hòe giác (Fructus Sopharae japonicae).
Cây hoa phấn - 紫茉莉. Còn gọi là cây bông phấn, belle de nuit, la ngot, pea ro nghi (Camphuchia). Tên khoa học Mirabilis jalapa L (Jalapa congesta Moench, Nyctago hortensis Bot.). Thuộc họ Hoa giấy (Nyctaginaceae).
Cây hồng hoa - 紅花 (红花). Còn có tên là cây rum. Tên khoa học Carthamus tinctorius L.. Thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae). Người ta thường dùng hồng hoa (Flos Carthami) là hoa phơi hay sấy khô của cây hồng hoa (hoa màu hồng do đó có tên hồng hoa).
Cây hột mát - 腫莢豆 (肿荚豆). Còn gọi là cây xa, thàn mát. Tên khoa học Antheroporum pierrei Gagnep. Thuộc họ Cánh bướm Fabaceae (Papilionaceae).
Cây huyết dụ - 鐵樹 (铁树). Tên khoa học Cordyline terminalis Kunth (Dracaena terminalis Jacq.). Thuộc họ Hành tỏi (Liliaceae). Ta dùng lá của cây huyết dụ (Folium Cordyline).
Cây ké đầu ngựa - 蒼耳 (苍耳). Còn gọi là thương nhĩ (tên Trung Quốc), phắt ma (Thổ). Tên khoa học Xanthium strumarium L.. Thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae). Ta dùng quả ké đầu ngựa, hay toàn bộ phận trên mặt đất của cây ké đầu ngựa, phơi hay sấy khô. Ở Trung Quốc, gọi quả ké là thương nhĩ tử (Fructus Xanthii).
Cây keo giậu Còn có tên là cây bồ kết dại, cây muồng, cây táo nhân. Tên khoa học Leucaena glauca Benth. Thuộc họ Trinh nữ (Mimosaceae). Ta dùng hạt keo còn gọi là hạt muồng, hạt quả bồ kết dại, hạt quả táo nhân - Semen Leucaenae Glaucae.
Cây khôi - 短柄紫金牛. Còn gọi là cây độc lực, đơn tướng quân. Tên khoa học Ardisia sylvestris Pitard. Thuộc họ Đơn nem (Myrsinaceae). Ta dùng lá cây khôi phơi hay sấy khô Folium Ardisiae.
Cây kim vàng - 花葉假杜鵑 (花叶假杜鹃). Còn có tên là Gai kim vàng, Trâm vàng. Tên khoa học Barleria lupulina Lindl. Thuộc họ Ô rô Acanthaceae.
Cây la - 野煙葉 (野烟叶). Còn gọi là la rừng, ngoi, cà hôi, phô hức (Thổ), chìa vôi, sang mou (Luang prabang-Lào). Tên khoa học Solanum verbascifolium L. (Solanum pubescens Roxb, Solanum erian-thum Don.). Thuộc họ Cà (Solanaceae).
Cây lá men - 小魚仙草 (小鱼仙草). Còn gọi là kinh giới núi, cây men. Tên khoa học Mosla dianthera Maxim. Thuộc họ Hoa Môi Lamiaceae (Labiatae).
Cây lá ngón - 斷腸草 (断肠草). Còn gọi là co ngón (Lạng Sơn), thuốc dút ruột - hồ mạn trường - đại trà đằng, hồ mạn đằng, hoàng đằng, câu vẫn, đoạn trường thảo. Tên khoa học Gelsemium elegans Benth, (Medicia elegans Gardn, Leptopteris sumatrana Blume). Thuộc họ Mã tiền (Loganiaceae). Cây lá ngón được coi lá loại cây độc nhất trong nước ta. Người ta cho rằng chỉ cần ăn 3 lá là đủ chết người. Tên cây ngón còn dùng để chỉ một cây khác nữa có tên khoa học là Pterocaryatonkinensis Dode thuộc họ Hồ đào (Juglandaceae) sẽ giới thiệu ở sau. Cần chú ý tránh nhầm lẫn.
Cây lá tiết dê - 錫生藤 (锡生藤). Còn gọi là cây mối tròn, cây mối nám. Tên khoa học Cissampelos pareira L. (Cissampelos convolvulacea Willd.). Thuộc họ Tiết dê (Menispermaceae).
Cây lai - 石栗. Còn gọi là thạch lật (Trung Quốc), ly (Thái) sekiritsu (Nhật), bancoulier à trois lobes. Tên khoa học Aleurites moluccana Willd. (Aleurites triloba Forst.). Thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae).
Cây lim - 格木. Còn gọi là xích diệp mộc, cách mộc. Tên khoa học Erythrophloeum fordii Oliv. Thuộc họ Vang (Caesalpiniaceae).
Cây mã tiên thảo - 馬鞭草 (马鞭草). Còn có tên là cỏ roi ngựa. Tên khoa học Verbena officinalis L.. Thuộc họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae). Người ta dùng toàn cây mã tiên thảo (Herba Verbenae) tươi hay phơi hoặc sấy khô. Tên mã tiên do chữ "mã" = ngựa, "tiên" = roi, vì cỏ dài, thẳng, có đốt như roi ngựa, do đó mà đặt tên như vậy. Châu Âu (Pháp) dùng với tên Verveine.
Cây mắm - 海欖雌 (海榄雌). Còn gọi là mắm đen, mắm trắng. paletuvier, manglier (Pháp). Tên khoa học Aviccennia marina Vierh var. alba Bakhuiz (mắm trắng), Avicennia marina Vierh var. rumphiana Bakhuiz. Thuộc họ Cỏ roi ngựa (Verbernaceae).
Cây mào gà đỏ - 雞冠花 (鸡冠花). Còn có tên bông mồng gà đỏ, kê quan hoa, kê đầu, kê quan. Tên khoa học Celosia cristata L. (Celosia argentea var. cristata (L.) O. Kuntze. Thuộc họ Dền (Amaranthaceae).
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]