Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

CAO BAN LONG - 鹿角膠 (鹿角胶)

Còn gọi là lộc giác giao.

Tên khoa học Colla Cornus Cervi.

Cao ban long chế bằng cách nấu gạc với nước rồi cô đặc lại; ban là đốm; long là rồng. Rồng là một con vật quý. Ý nói cao chế từ con vật quý có đốm.

A. CÁCH BÀO CHẾ CAO BAN LONG

Việc nấu cao ban long trước đây thường do một số thợ chuyên môn tiến hành. Những người này thường có đủ đồ dùng để nấu cao ban long.

- Một thạp lớn bằng đất nung, tráng men ở trong, cao 40-50cm, rộng 30-35cm sức chứa 35-40kg sừng hươu nai (tức là khoảng 5 yến ta; một yến ta = 6,40kg). Khi chọn thạp cần chú ý chọn thạp chịu được lửa, không dò, nét. Hiện nay ta dùng những nồi bằng nhôm, sức chứa lớn hơn.

- Một, hai cái cưa nhỏ để cưa sừng.

- Vài cái nạo bằng sắt để nạo sừng.

- Rọ bằng tre đan chiều cao bằng chiều cao của thạp nấu hoặc nối nấu.

- Gáo để múc có kích thước nhỏ hơn miệng ống tre.

- Đũa tre bẹt ro như chiếc bơi chèo để khuấy, thường là 2 chiếc.

- Chảo đồng lớn một chiếc.

- Khăn vải mỏng để lọc 3 chiếc.

- Nồi hay thùng thiếc để đun nước sôi.

- Khay hay hộp hoặc mâm đồng để đổ cao.

Trên đây là dụng vụ cần thiết để nấu một mẻ 35-40kg sừng. Muốn nấu nhiều thì tăng số sụng cụ lên.

Hiện nay do việc nấu tập trung tại xí nghiệp lớn cho nên có đôi chút thay đổi.

Trước khi bắt tay vào chuẩn bị nấu, cần đắp bếp. Thường để đun một thạp, cần có 3 miệng lò: Lò chính giữa để thạp nấu gạc, một lò bên đun nồi nước sôi để có nước sôi tiếp tục thêm vào thạp gạc, một lò bên nữa để bắc chảo dùng để cô cao. Có thể là một bếp chính có 2 lỗ thông sang 2 bên. Các lỗ này có cửa để đóng lại khi chưa nấu tới.

Chọn sừng: Thường người ta chọn những loại sừng to, nặng 0,8-1kg mỗi sừng, mặt ngoài sừng có màu vàng đỏ là tốt. Những loại khác cho hiệu suất kém, và chất lượng cũng kém.

Chuẩn bị sừng: Để nấu một thạp thường người ta cần:

   Sừng hươu nai 36-40kg;

   Rượu ta (35-40º) 5 lít;

   Nước thường vừa đủ.

Đem chất sừng thành một đống, thường xuyên tưới nước cho thật ẩm ướt hoặc dùng bao rải sạch dấp nước đắp lên cho nước thấm vào sừng. Thường làm như vậy một đêm để vỏ ngoài của sừng được mềm.

Sáng hôm sau, đem cạo hết lớp cỏ đốm đen ở ngoài sừng. Muốn như vậy, cho 4-5 cái sừng dựng đứng vào một vại nước lã. Khi dựng chú ý để đế sừng ở phía trên nước cho chỉ phủ ngập sừng, không ngập đế, tránh nước bẩn rút vào trong sừng.

Lấy ra từng cái một, cạo sạch vỏ đen vàng bên ngoài, cho đến khi chỉ còn xương trắng toát là được.

Cạo xong đem cưa thành từng khúc dài 5-6cm trừ bỏ đế và xương trán. Sau đó dùng cho chẻ thành từng miếng nhỏ. Mỗi khúc gạc chẻ thành 4-5 mảnh hay 8 mảnh tùy theo to nhỏ. Những miếng gạc có tủy đen thì chẻ bỏ đi, chỉ lấy những miếng có tủy trắng và vàng.

Chẻ xong cho vào rổ (rá) rửa sạch 2-3 lần bằng nước lã, rồi phơi cho thật  khô; ngày phơi nắng, tối phơi sương. Sau 2-3 ngày gạc trắng đẹp thì cho vào nấu.

Nấu cao: Cho gạc phơi khô vào thạp, với 5 lít rượu trộn đều. Đậy kín thạp. Cứ nửa giờ lại trộn một lần. Chừng sau 3 giờ sẽ bắt đầu nấu. Chưa rõ tại sao lại phải trộn với rượu.

Trước khi cho gạc vào thạp để nấu, cần để rọ tre đan vào giữa thạp, gạc hươu đã chẻ nhỏ xếp chung quanh. Xếp như vậy để vừa nấu, vừa có thể múc nước cao ra được.

Khi cưa gạc, có thứ bột cưa ra cũng đừng bỏ đi. Ta gói vào một túi vải, tưới rượu vào, ủ chung với gạc, sau đó buộc túi chặt lại cho vào nấu chung với gạc.

Sau khi nhóm lửa, bắc thạp lên lò, đổ nước vào cho đủ ngập gạc chừng 7-10cm; một lò bên cạnh để đun thùng nước sôi, khi thạp cao bị cạn thì cho thêm nước sôi vào. Đun cho đều lửa để giữ cho sôi đều. Sau một ngày một đêm, có cạn cũng không cho thêm nước nữa. Hai giờ sau ta sẽ múc nước đầu ra gọi là nước nhất (ví dụ bắt đầu đun 6 giờ sáng hôm nay đến 8 giờ sáng hôm sau bắt đầu múc nước nhất).

Nước múc ra được lọc qua miếng vải lọc đặt trên chiếc phên đan bằng tre. Nước lọc hứng vào một chảo đồng to, đặt ở miệng lò thứ 2. Giữ ngọn lửa nhỏ đều (gọi là lửa văn) để cô đặc. Khi cô dùng đũa tre to quấy đều cho tới khi đưa thanh tre lên thổi vài ba hơi, thấy cao đóng cục không chảy nữa là được. Đổ chỗ cao này vào cái khay đã bôi mỡ cho khỏi sát.

Trong khi đun nước nhất này có khi người ta cho vào chỗ rọ tre đan vài quả trứng gà. Quả trứng này chín sẽ đen lại và rút vào trứng một số chất bổ của cao, như vậy chất lượng của cao sẽ kém đi.

Sau khi múc hết nước, lại đổ nước sôi vào thạp cho ngập nước gạc như trước và tiếp tục đun trong 24 giờ như trên, múc ra lọc và cô lại sẽ được cao của nước nhì.

Nước nhất và nước nhì khi cô, nên lấy hơi non, nghĩa là chưa cần đặc lắm.

Vải lọc và phên tre dính cao nhúng vào nước nóng cho ta rồi đổ vào thạp nấu cho khỏi hao, lỗ vải cũng khỏi bị cao bít kín.

Thường người ta nấu đến nước thứ ba, mỗi lần một ngày một đêm, tổng cộng 3 ngày, 3 đêm là xong.

Cô cao: Nước thứ ba lọc được chỉ cần cô nửa chừng không cần đổ ra khay như hai nước trước. Đem cao của nước nhất và nước nhì thái thành từng miếng nhỏ, bỏ vào chảo có nước ba đánh cho tan.

Giai đoạn cô cao này quan trọng nhất vì nó quyết định của cả mẻ cao. Lửa cần giữ cho đều nhưng nhỏ (lửa văn). Cô cho đến khi thành cao, để nguội không cứng quá mà cũng không mềm quá, nếu cứng quá hiệu suất thấp, nhưng nếu mềm quá cao hay chảy và mốc.

Khi cao đã gần được chỉ để ít than mà cô. Khi cao đã nóng thì bắc xuống đất, đặt lên bao tải mềm cho khỏi hại đáy chảo mà khuấy; khi cao đã hơi nguội lại đưa lên bếp đun cho nóng rồi lại bắc xuống đánh và khuấy cho đến khi được thì đem đổ ra khay hay mâm đã bôi mỡ cho khỏi sát vào khay. Đợi 1-2 ngày bóc ra và cắt thành từng miếng nặng từ 70-100g (2-3 lạng ta). Hiện nay ta cắt thành từng miếng 100g một.

Hiệu suất: 100kg sừng cho từ 20-25kg cao. Để tăng phẩm chất của cao, nhiều khi trong một thạp cao, người ta cho thêm vào một cặp nhung. Cao chế được gọi là cao nhung. Giá gấp hai cao thường.

B. THÀNH PHẦN HÓA HỌC CỦA CAO BAN LONG

Cao ban long tuy chưa được nghiên cứu kỹ, nhưng sơ bộ ta đã biết rằng trong cao ban long mặc dù chế từ sừng hươu nai nhưng không có muối canxi như một số người thường nói.

Thành phần chủ yếu của cao ban long là chất lượng keratin cùng loại với chất gelatin. Chúng ta cũng biết rằng thành phần hóa học của keratin thay đổi tùy theo nguồn gốc, nhưng chứa rất nhiều sunfua dưới hình thức axit amin, xystein và axit có sunfua không có amin, ngoài ra còn chứa axit amin tyrosin. Nghiên  cứu một loại keratin-Thomas đã thấy có 8,8% xystein 6,5% tyrosin 18,2% leuxin 15% axit glutamic 4,7% acginin 1,2% alinin 0,2% lysin và 0,4% glycocol.

Những axit amin như axit glutamic, lysin, xystein, leuxin và tyrosin đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì và phát triển cơ thể.

Ngoài ra chúng ta biết rằng gelatin có tác dụng cầm máu. Trước khi tiêm thời gian máu đông là 7 phút, sau khi tiêm galatin, thời gian máu đông giảm xuống 3 phút. Marfan đã chứng minh gelatin uống vẫn có tác dụng cầm máu vì tính chất của gelatin không bị dịch vị và dịch tràng phá hủy. Chất keratin cũng là một chất khó bị phân giải, hay sự phân giải rất chậm.

Các tính chất trên giải thích được phần nào công dụng của cao ban long là vị thuốc được chỉ định trong các trường hợp xuất huyết như ho ra máu, nôn ra máu, đái ra máu, chảy máu trong ruột, tử cung ra máu v.v...

C. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Cao ban long là một vị thuốc bồi dưỡng, thuốc bổ, thuốc cầm máu dùng trong các trường hợp thổ huyết, nôn và ho ra máu, dạ dày và ruột chảy máu, tử cung ra máu, kinh nguyệt quá nhiều, đi tiểu nhiều, mồ hôi trộm chân tay đau nhức.

Liều dùng: Ngày ăn 5-10g. Có thể ăn tới 20g. Cắt thành từng miếng nhỏ để nhai và ngậm cho tan dần trong miệng. Có thể ăn với cháo hoặc hòa tan trong rượu hâm nóng lên mà uống. Có thể dùng ngậm để chữa ho, ho khan, ho gió.

Đơn thuốc có cao ban long:

   1. Bài nhị long ẩm (của Hải Thượng Lãn Ông) chữa mất ngủ, sốt về chiều, kém ăn: Cao ban long 40g (1 lạng ta), long nhãn 40g (1 lạng ta). Long nhãn cho vào nước sắc kỹ, vắt lọc lấy nước, cắt nhỏ cao ban long vào khuấy và đun cho tan. Uống khi còn nóng.

   Hải Thượng Lãn Ông dùng thuốc này làm thuốc chữa các trường hợp không ngủ, đổ mồ hôi trộm, sốt về chiều khát nước, đại tiện táo bón, miệng lở, mắt vàng, ăn uống không được.

   2. Bài bổ tỳ âm tiễn (Hải Thượng Lãn Ông): Bạch truật 160g (4 lạng) sao với  sữa, hoặc sao đất nếu đi tả, sâm bố chính 80g sao vàng với gạo nếp, thục địa 40g nướng khô, can khương 4g sao đen, long nhãn 28g, cao ban long 40g. Các vị trên sắc với nước nhiều lần, cô đặc thành cao, mỗi lần uống chừng 2 cốc con, dùng nước hạt sem làm thang.

   Nếu hay sôi bụng thêm 4g đinh hương. Nếu đại tiện lỏng quá thêm 12g nhục đậu khấu và 4g ngũ vị tử.

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

focus Sầu riêng
11/06/2025 08:05 CH

- 榴蓮 (榴莲). Còn gọi là thu ren (Campuchia), durio. Tên khoa học Durio zibethinus Murray. Thuộc họ Bông (Bombacaceae).

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Huyền sâm - 玄參 (玄参). Còn gọi là hắc sâm, nguyên sâm. Tên khoa học Scrophularia buergeriana Miq. Thuộc họ Hoa mõm chó (Scrophulariaceae). Huyền sâm (Radix Scrophulariae) là rễ phơi hay sấy khô của cây bắc huyền sâm Scrophularia bucrgeriana Miq. Có tài liệu nói là Scrophularia oldhami Oliv hoặc rễ cây huyền sâm Scrophularia ningpoensis Hemsl. Tên huyền sâm vì vị thuốc giống sâm và có màu đen (huyền là đen).
Huyết giác - 山鐵樹 (山铁树). Còn gọi là cây xó nhà, cây dứa dại, cây giáng ông. Tên khoa học Pleomele cochinchinensis Merr. (Dracaena loureiri Gagnep.). Thuộc họ Hành tỏi (Liliaceae). Huyết giác là chất gỗ màu đỏ, do một loại sâu hay nấm gây ra trên gỗ cây huyết giác già cỗi mục nát.
Huyết kiệt - 山石榴. Còn gọi là Sang dragon. Tên khoa học Calamus draco Willd. (Daemonorops draco Nred.). Thuộc họ Dừa (Palmaceae). Huyết kiệt (Resina Draconis hay Sanguis Draconis) là nhựa khô phủ trên mặt quả của một loại mây-song như Calamus draco Willd., Calamus propinquus Becc. Vì màu đỏ như máu lại khô cho nên gọi là huyết kiệt, có nơi gọi là máu rồng, cho nên châu Âu dịch nghĩ là Sang dragon (máu rồng). Vị thuốc được dùng cả trong Đông và Tây y nhưng cho đến nay đều còn phải nhập.
Huyết lình - Còn gọi là lục linh. Lình là tên tiếng Thổ của con khỉ; lục là nhau thai và huyết linh là máu chảy ra của con khỉ sau khi đẻ, phơi khô.
Hy thiêm - 豨簽 (豨莶). Còn gọi là cỏ đĩ, cứt lợn, hy kiểm thảo, hy tiên, niêm hồ thái, chư cao, hổ cao, chó đẻ, nụ áo rìa. Tên khoa học Siegesbeckia orientalis L. (S. glutinosa Wall., Minyranthes heterophylla Turcz.). Thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae). Cây này đầu tiên thấy dùng ở nước Sở (một nước cổ ở miền nam Trung Quốc); dân nước này gọi lợn là hy, gọi cỏ đắng cay có độc là thiêm, vì khí vị cây này như mùi lợn, do đó có tên. Chữ cứt lợn là dịch nghĩa Việt của tên cây, nhưng chỉ cần chú ý tên cứt lợn còn dùng chỉ một cây khác thuộc họ Cúc (xem vị này ở mục các thuốc chữa bệnh phụ nữ) để tránh nhầm lẫn trong khi sử dụng. Tên cỏ đĩ vì hoa cây này có chất dính, khi người ta đi qua, nó dính theo người ta. Hy thiêm thảo (Herba Siegesbeckiae) là toàn cây hy thiêm phơi hay sấy khô.
Ích mẫu - 益母草. Còn gọi là ích mẫu thảo, sung úy, chói đèn. Tên khoa học Leonurus heterophyllus Sw. Thuộc họ Hoa môi Lamiaceae (Labiatae). Cây ích mẫu cung cấp cho ta 2 vị thuốc: Ích mẫu hay ích mẫu thảo (Herba Leonuri) là toàn bộ phận trên mặt đất phơi hay sấy khô của cây ích mẫu; Sung úy tử (Fructus Leonuri) là quả chín phơi hay sấy khô của cây ích mẫu.
Ích trí nhân - 益智仁. Còn gọi là ích trí, ích trí tử. Tên khoa học Alpinia oxyphylla Miq. Thuộc họ Gừng (Zingiberaceae). Ích trí nhân (Fructus Alpiniae oxyphyllae) là quả gần chín phơi hay sấy khô của cây ích trí (Alpinia oxyphylla Miq.). Vì vị thuốc giúp ích tỳ vị cho nên có tên như thế.
Ké hoa đào - 地桃花. Còn gọi là phan thiên hoa, tiêu phan thiên hoa, nha khac mòn (Thái), bái lương, bái cúc, vái, địa đào hoa, niêm du tử, dã miên hoa. Tên khoa học Urena lobata L. (Urena monopetala Lou., Urena sinuata L., Urena scabruiscula DC.). Thuộc họ Bông (Malvaceae).
Ké hoa vàng - 白背黄花稔. Còn gọi là ké đồng tiền, bạch bối hoàng hoa nhậm, chỗi đực, khát bo lương (Thái). Tên khoa học Sida rhombifolia L. (Sida alnifolia Lour.). Thuộc họ Bông (Malvaceae).
Kê nội kim - 雞內金 (鸡内金). Còn gọi là kê hoàng bì, kê chuẩn bì, màng mề gà. Tên khoa học Corium Stomachichum Galli. Kê nội kim là lớp màng màu vàng phủ mặt trong của mề hay dạ dày con gà Gallus domesticus Brisson thuộc họ Phasianidae.
Kẹo mạch nha - 飴糖 (饴糖). Còn gọi là kẹo mạ, di đường. Tên khoa học Sacharum granorum. Kẹo mạch nhà là chất đường do tác dụng của men trong hạt thóc nẩy mầm trên tinh bột gạo nếp, gạo tẻ hay một ngũ cốc nào khác, rồi cô đặc lại. Kẹo mạch nha được dùng từ lâu đời. Các tài liệu cổ cho kẹo mạch nha làm mạnh dạ dày, bổ tỳ nhuận phổi.
Keo nước hoa - 金合歡 (金合欢). Còn gọi là keo ta, mân côi, mak ku kong, kum tai (Lào), sambor meas (Cămpuchia), cassie du Levant. Tên khoa học Acacia farnesiana Willd. (Mimosa farnesiana L.). Thuộc họ Trinh nữ (Mimosaceae).
Kha tử - 訶子 (诃子). Còn gọi là cây chiều liêu, myrobolan de commerce. Tên khoa học Terminalia chebula Retz. (Terminalia reticulata Roth., Myrobalanus chebula Gaertn.). Thuộc họ Bàng (Combretaceae). Kha tử (Fructus Teminaliae) là quả chín sấy hay phơi khô của cây chiều liêu hay kha tử.
Khế - 陽桃 (阳桃). Còn gọi là khế ta, khế cơm, khế chua, khế giang, ngũ lãng tử, dương đào, ngũ liêm tử. Tên khoa học Averrhoa carambola L.. Thuộc họ Chua me đất (Oxalidaccae). Vì quả khế có 5 cạnh nên gọi là ngũ liễm (liễm là thu lại, tụ lại).
Khế rừng - 小葉紅葉藤 (小叶红叶藤). Còn gọi là dây quai xanh, cây cháy nhà. Tên khoa học Rourea microphylla Planch. Thuộc họ Khế rừng (Connaraceae).
Khiếm thực - 芡實 (芡实). Còn có tên kê đầu, khiếm. Tên khoa học Euryale rerox Salisb. Thuộc họ súng (Nympheceae). Ở Việt Nam hiện nay dùng hai vị thuốc mang tên khiếm thực, ta cần chú ý để phân biệt. (1) Hạt phơi hay sấy khô (Semen Euryales) của cây khiếm thực nói trên.Vị này mới đúng là vị khiếm thực nhưng còn phải nhập của Trung Quốc vì nước ta chưa thấy cây này. (2) Thân rễ củ phơi hay sấy khô của cây củ súng nhỏ Nymphaea stellata Wild. cùng họ Súng (Nymphaeaceae). Nhiều người và nhiều nơi vẫn dùng vị này với tên khiếm thực.
Khiên ngưu - 牽牛. Còn gọi là hắc sửu, bạch sửu, bìm bìm biếc, kalađana (Ấn Độ). Tên khoa học Ipomoea hederacea Jacq (Pharbitis hederacea Choisy). Thuộc họ Bìm bìm (Convolvulaceae). Khiên ngưu tử (Pharbitis hay Semen Pharbitidis) là hạt phơi khô của cây khiên ngưu hay bìm bìm biếc. Cây khiên ngưu còn cho ta vị thuốc nhựa khiên ngưu (Resina Pharbitidis). Khiên là dắt, ngưu là trâu là vì có người dùng vị thuốc này khỏi bệnh, dắt trâu đến tạ ơn người mách thuốc. Hắc sửu là chỉ hạt màu đen, bạch sửu là hạt màu trắng.
Khổ sâm Tên khổ sâm có nghĩa sâm đắng được dùng để chỉ ba vị thuốc nguồn gốc và công dụng khác hẳn nhau. (1) Hạt khổ sâm: Thực tế là quả của cây sầu đâu rừng Brucea sumatrana thuộc họ Khổ sâm (Simarubaceae), hay nha đảm tử - khổ luyện tử; (2) Lá của cây khổ sâm Croton tonkinensis thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae); (3) Rễ cây dã hòe (hòe mọc hoang) Sophora flavescens. Cần chú ý khi dùng để tránh nhầm lẫn.
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]