Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

CÁNH KIẾN ĐỎ - 紫梗

Còn gọi là tử giao, tử ngạnh, xích giao, hoa một dược, dương cán tất, tử trùng giao, tử thảo nhung.

Tên khoa học Lacca-Stick-lac.

IMG

Cánh kiến đỏ - Laccifer lacca

Cánh kiến đỏ (Lacca) là chất nhựa màu đỏ do một loài rệp son cánh kiến đỏ - Laccifer lacca Kerr. - thuộc họ Sâu cánh kiến lacciferidae hút nhựa cây chủ bài tiết ra.

Tên con rệp son, có tác giả xác định là Tachardia lacca R. Bld. (Tachard là một nhà truyền giáo Pháp đã nghiên cứu cánh kiến đỏ ở Pondichery Ấn Độ và báo cáo ở Viện hàn lâm Pháp năm 1710), cũng có tác giả xác định là Carteria lacca Sign. (do Carter đã nghiên cứu cánh kiến đỏ ở Bombay, Ấn Độ năm 1860-1861).

Hiện nay tên Laccifer lacca Kerr. thông dụng hơn cả. Tuy nhiên có thể những chủng đó có chỗ khác nhau, ta chưa phát hiện được.

A. MÔ TẢ CON RỆP SON CÁNH KIẾN

Rệp son cánh kiến là một côn trùng rất nhỏ; dài vào khoảng 0,60-0,70mm, rộng 0,3 đến 0,35mm hình trông giống thuyền nhỏ; trên đầu có 2 râu, miệng có vòi nhỏ để hút nhựa. Thân có ngực gồm 3 đốt, 3 đôi chân, 2 đôi lỗ thở; bụng dài, ở phía cuối có 2 lông cứng dài.

Rệp son có con cái con đực, nhưng từ khi nhỏ đến lớn có nhiều dạng khác nhau; trong con đực lại có con có cánh có thể bay từ cành này sang cành khác trên một khoảng cách không xa và có con đực không có cánh, chỉ bò quanh tập đoàn sâu nhựa mà thôi.

Trong một tập đoàn, bình thường con đực chiếm 30-40%, con cái chiếm 60-70%.

Con cái mới sản xuất ra nhựa cánh kiến, con đực cũng cho nhựa nhưng tổ nhỏ và mỏng. Tổ nhựa của con đực hơi hình thoi, còn tổ nhựa của con cái hình tròn. Khi mới ở tổ mẹ chui ra, con rệp son cánh kiến tìm đến những cành non thích hợp của cây chủ rồi định cư thành những tập đoàn bao bọc cả hay một phần chung quanh cành, chiều dài của tập đoàn (tổ nhựa) dài 2 đến 50cm có khi dài trên 1m.

Khi rệp mới nở ra trông không rõ đực cái, cũng không thấy râu, chân và đuôi, chỉ là một hình bầu dục, đầu có vòi nhỏ cắm vào vỏ cây, hai bên lưng và đuôi có 3 chùm lông tơ trắng. Sau hai tuần định cư thấy xuất hiện các tổ nhựa đực (hình thoi) và tổ nhựa cái (hình đĩa tròn); sau 1 tháng rưỡi các tổ đã khít lại gần nhau; lúc này ta thấy có một số cánh kiến đực có cánh và không cánh đi tìm con cái để giao hợp.

Con cái nằm nguyên trong tổ. Con đực chỉ sống 2-3 ngày, làm xong nhiệm vụ thì chết.

Sau thời kỳ này tổ cái phát triển mạnh. Đến tháng 4-5 đối với vụ mùa hay tháng thứ 5 thứ 6 (đối với vụ chiêm), các tổ đã có chiều dầy 3-6mm.

Cánh kiến đỏ trưởng thành chỉ là một túi chứa đầy dung dịch màu đỏ có lẫn những hạt hình bầu dục nhỏ dài tức là trứng của nó. Trứng càng già thì dung dịch càng đặc và khô dần, cuối cùng chỉ còn là một bọc nhăn nheo chứa đầy trứng. Số trứng trong con mẹ từ 200 đến 500 trứng, có khi tới 1000 (nghiên cứu trong một thời gian, Viện nghiên cứu lâm nghiệp Việt Nam năm 1964 đã thấy số trứng từ 238 đến 454, trung bình là 332). Trên mỗi cm2 tập đoàn cánh kiến khi mới định cư có từ 80-120 con (Liên Xô cũ-Ấn Độ), nhưng tại Việt Nam có được 171-176, trung bình 172 con.

B. PHÁT TRIỂN VÀ THU HOẠCH

Muốn phát triển cánh kiến đỏ, cần chú ý 2 khâu:

   1. Chọn cây chủ tức là cây cung cấp thức ăn cho rệp son cánh kiến trong suốt cả vòng đời để sản xuất ra nhựa;

   2. Thả và thu hoạch cánh kiến.

Chọn cây chủ:

   Người ta cho rằng rệp son cánh kiến thuộc loài tạp thực vì nó có thể ký sinh trên rất nhiều loài cây chủ; theo kinh nghiệm của những nước Ấn Độ, Trung Quốc, Lào, Campuchia, Thái Lan, Miến Điện thì chừng 240 loài thuộc 35 họ thực vật có thể làm cây chủ cho rệp son cánh kiến, nhưng ở Việt Nam tốt nhất là những cây đậu thiều Cajanus indicus, cây cọ phèn-Schleicheria trijuga, pic niếng Dalbergia obtusifolia, cọ khẹt Dalbergia hupeana var. laccifera, cây cơi hay cọ xôm, cọ ngón Pterocarya tonkinensis, muồng đen Cassia siamea, đậu bạc đầu Desmodium cephalotes.

   Một số cây ăn quả như vải, nhãn, táo cũng có thể làm cây chủ cho cánh kiến nhưng chỉ nên dùng những cây kém quả.

   Cây chủ chọn rồi nhưng cũng còn chú ý tới tu bổ làm cho cây có nhiều cành non bánh tẻ nghĩa là không non quá cũng không già quá thì mới tốt.

Thả và thu hoạch cánh kiến:

   Mỗi năm có 2 vụ cánh kiến: Vụ chiêm buộc giống vào tháng 8-10, thu hoạch vào tháng 4-5; vụ mùa buộc giống vào tháng 4-5, thu hoạch vào tháng 9-10.

   Sau khi đã chọn được giống tốt (không có mấm mốc, sâu bọ làm hại), buộc vào cây chủ đã tu bổ và làm vệ sinh rồi: Đối với cây đậu thiều mỗi cây chỉ cần buộc một đoạn giống dài 5-10cm; nếu là cây chủ to thì buộc 2-3 đoạn giống, nếu giống không có cành hay  thành từng đoạn ngắn quá khó buộc thì có thể cho vào sọt tre nhỏ hay túi lưới rồi mắc lên cây. Vì rệp son cánh kiến không đi được xa cho nên khi buộc cần chú ý không buộc xa cành non quá, đối với đậu thiều buộc cách mặt đất trên 50cm, đối với cây lớn, buộc vào chỗ phân nhánh để rệp son có thể bò sang nhiều cành, từ nơi buộc đến nơi định cư không quá 3m. Buộc giống vào sáng sớm. Nếu gặp ngày mưa tuyệt đối không buộc.

   Sau 2 tháng trở đi, nếu cây chủ có nhiều cành lá rậm rạp thì phải tỉa bớt đi cho thoáng. Sau 5 tháng đối với vụ mùa và 6-7 tháng đối với vụ chiêm thì cánh kiến đỏ đã già, cần theo dõi để thu hoạch.

   Nếu để làm giống thì sau khi kiểm tra sâu bệnh, chọn cành tốt buộc ngay lên cây chủ mới, nếu cần bảo quản ít ngày thì phải trải mỏng để nơi râm mát. Khi di chuyển giống cần đựng trong hòm gỗ có nhiều khe hở hoặc sọt tre đan thưa. Khi tới nơi mà chưa buộc ngay thì phải mở ra để nơi râm mát. Tỷ lệ giữa giống và diện tích cây, cành có khả năng cho chúng phát triển là 1/30; ta có thể tính theo chiều dài, ví dụ nếu cộng chiều dài các cành và đoạn thân của cây có khả năng cho cánh kiến đỏ phát triển khoảng 3m thì chỉ cần một đoạn giống dài 10cm. Đó là nói giống vụ chiêm để dành cho vụ mùa; nếu lấy giống vụ mùa để phát triển cho vụ chiêm thì chỉ dùng 1/2 hay 1/3 so với giống vụ mùa tức là chiều dài chỉ bằng 1/60 đến 1/90 chiều dài cành định nuôi, vì về mùa này cây ít nhựa không đủ thức ăn cho cánh kiến đỏ ăn, phẩm chất tổ nhựa sẽ xấu và nếu buộc nhiều giống, cây sẽ chết.

   Nếu thu hoạch để chế biến, thì sau khi gỡ tổ bỏ cành cho vào sọt tre ngân nước 2 ngày 2 đêm (ngâm nước chảy khe suối sông thì tốt hơn, ngâm nước đứng thường bị thối) cho chết sâu non và ung các trứng, xong đem trải phơi ở nơi râm mát và thoáng gió. Nếu phơi nắng to tổ nhựa sẽ bị chảy mềm và kết cục lại.

   Tỷ lệ thu hoạch tùy theo cây chủ, cách chăm sóc và khí hậu từng nơi thay đổi từ 1 phần giống được 50 đến 80 phần cánh kiến, nhưng có nơi chỉ gấp 2-3 lần. Ví dụ ở Hà Nội có người thả chừng 300g giống vào tháng 10-1963 trên 2 cành đa búp thổi (Ficus religiosa) thì tháng 10-1964 thu hoạch 13kg (gấp 40 lần). Tại Mai Châu có cụ thả 5kg giống trên cây vải thu hoạch gần 200kg (gấp 40 lần). Tuy nhiên cũng có trường hợp thất thu.

   Theo số liệu cũ của Pháp hằng năm toàn miền Bắc sản xuất chừng 300 tấn cánh kiến đỏ, toàn Đông Dương (Việt Nam, Campuchia, Lào) sản lượng có năm (1922) lên tới 1.232 tấn cánh kiến đỏ, chưa chế biến và 1,2 tấn đã chế biến, năm 1923 con số nhựa thô là 1.177,1 tấn và 5.800kg đã chế biến dạng vẩy và 23.500kg chế biến dạng hạt.

C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Trong cánh kiến đỏ có chừng 75% chất nhựa, 4-6% chất sáp, 5-6% chất màu, tạp chất khác (mảnh gỗ, xác rệp son) chừng 9%, độ ẩm chừng 3,5%. Thành phần của nhựa cánh kiến chủ yếu là những chất cao phân tử do lactit của axit shellolic C15H20O6 và axit aleuritic C16H32O5.

Chất sáp trong cánh kiến đỏ là este của các ancol tachardiaxerola C25H52O và lacxerola C32H66O và những axit lacxeric C32H64O2 và axit tachardiaxerinic C26H52O2.

Chất màu của cánh kiến đỏ còn gọi là lackdye gồm chủ yếu là các axit laccaic C20H14O10 là một dẫn xuất của anthraquinon có màu đỏ; cấu tạo của axit cacminic do bọ rùa Coccus cacti và  axit kermestic rệp son Coccus ilicis sản sinh ra.

IMG

D. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Cánh kiến đỏ là một vị thuốc tương đối ít dùng trong nhân dân.

Tính vị theo đông y là vị đắng, tính lạnh; có tác dụng thanh nhiệt, lương huyết, giải độc, cầm máu, đậu chẩn. Sốt mà không có mồ hôi thì dùng phải thận trọng. Ngày dùng 4-6g.

Nhân dân ta từ lâu dùng cánh kiến đỏ làm thuốc nhuộm răng đen và để gắn những cán dao hay lưỡi cày. Từ khi bỏ tục nhuộm răng, nhu cầu này giảm đi. Có nơi dùng cánh kiến đỏ làm thuốc nhuộm.
Gần đây cánh kiến đỏ được dùng trong kỹ nghệ để chế biến shellac (rửa bỏ chất màu rồi đun chảy, lọc nóng, đổ thành những màng mỏng dính) dùng làm vật cách điện, chống tia ngoại tím, quét giấy chống ẩm, chịu axit, đĩa hát, đánh bóng đồ dùng như gỗ, tre, vải, da v.v...

Ta có thể dùng cánh kiến đỏ để bao thuốc viên chống ẩm. Cồn gôm lắc 5% dùng chấm răng có thể đề phòng sâu răng.

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

Muối ăn
06/07/2025 08:59 CH

- 食鹽 (食盐). Còn gọi là thực diêm. Tên khoa học Natrium chloridum crudum. Muối ăn là những tinh thể hình lập phương dính với nhau thành hình tháp rỗng, không màu hay hơi đục bẩn, vị mặn, đặc biệt để ở những nơi ẩm ướt thì hay hút nước chảy ướt, nhưng khi rang...

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Cửu lý hương - 臭草. Còn gọi là rue tetide, văn hương. Tên khoa học Ruta graveolens L. Thuộc họ Cam quít (Rutaceae).
Dạ minh sa - 夜明砂. Còn gọi là phân con dơi, thiên thử phẩn, biên bức phần. Tên khoa học Excrementum Vespertilii hay Faeces Vespertiliorum. Vì phân con dơi ban đêm trông nhấp nhánh như cát cho nên gọi là dạ minh sa (dạ là đêm, minh là sáng, sa là cát).
Da voi - 像皮 (象皮). Còn gọi là tượng bì. Tên khoa học Corium Elephatis. Tượng bì là da con voi cạo sạch lông phơi khô.
Đại bi - 艾納香 (艾纳香). Còn gọi là băng phiến, mai hoa băng phiến, mai phiến, long não hương, mai hoa não, ngải nạp hương, ngải phiến, từ bi. Tên khoa học Blumea balsamifera (L.) DC. (Conyza balsamifera L. Baccharis salvia Lour.). Thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae). Băng phiến, (Bocneola hay Borneo - camphor) có thể do 3 nguồn gốc: (1) Chế từ gỗ cây long não hương (Dryobalanops aromatica Gaertn.) thuộc họ Dầu hoặc họ Song dực quả (Dipterocarpaceae). Cây này chưa thấy ở nước ta; (2) Chế từ cây đại bi hay từ bi hoặc từ bi xanh Blumea balsamifera DC., thuộc họ Cúc (Compositae). Cây này có ở nước ta và sẽ giới thiệu kỹ sau đây; (3) Chế bằng phương pháp tổng hợp hóa học, không giới thiệu ở đây.
Đài hái - 油瓜. Còn gọi là du qua, dây mỡ lợn, dây hái, then hái, mướp rừng, dây sén, mak khing (Lào), Kigarasu-uri (Nhật). Tên khoa học Hodgsonia macrocarpa (Blume) Cogn. (Trichosanthes macrocarpa Blume). Thuộc họ Bầu bí (Cucurbitaceae).
Đại hoàng - 大黃. Còn gọi là xuyên đại hoàng, tướng quân. Tên khoa học Rheum sp. Thuộc họ Rau răm (Polygonaceae). Đại hoàng (Rhizoma Rhei) là thân rễ phơi hay sấy khô của nhiều loại đại hoàng như chưởng diệp đại hoàng Rheum palmatum L., đường cổ đặc đại hoàng Rheum tanguticum Maxim. ex Regel (Rheum palmatum L. var. tanguticum Maxim.) hoặc dược dụng đại hoàng Rheum officinale Baill. hoặc một vài loài Rheum khác, tất cả đều thuộc họ Rau răm (Polygonaceaea). Vì vị thuốc màu rất vàng cho nên gọi là đại hoàng; vì có khả năng tống cái cũ, sinh cái mới rất nhanh chóng như dẹp loạn cho nên còn gọi là tướng quân.
Đại phong tử - 大風子. Còn gọi là chùm bao lớn, krabao phlêthom (Cămpuchia). Tên khoa học Hudnocarpus anthelmintica Pierre. Thuộc họ Mùng quân (Flacourtiaceae). Cây đại phong tử cho vị thuốc đại phong tử (Semen Hydnocarpi) là hạt phơi hay sấy khô của cây đại phong tử. Tên Hydnocarpus do hai chữ hydnon có nghĩa là một loài cây, carpus là quả nghĩa là quả giống một loài cây đã biết, anthelmintica do chữ Hy Lạp anti là chống lại, helminthe là trùng trong ruột ý muốn nói tác dụng của vị này đối với ký sinh trong ruột. Phong là tên Đông y của bệnh hủi và giống hủi, đại phong tử là loại quả to có tác dụng chữa bệnh hủi và giống hủi - tên này do Lý Thời Trân ghi chép trong cuốn Bản thảo cương mục (1595).
Đại phúc bì Là vỏ ngoài giữa phơi hay sấy khô của quả cau (xem cây cau). Thường các mảnh vỏ này được đập làm 2 mà phơi cho chóng khô.
Đại táo - 大棗 (大枣). Còn gọi là táo tàu; táo đen, táo đỏ. Tên khoa học Zizyphus sativa Mill. Thuộc họ Táo (Rhamnaceae). Đại táo (Fructus Zizyphi) là quả chín phơi hay sấy khô của cây táo tàu.
Dâm bụt - 朱槿. Còn gọi là bụp (miền Nam), xuyên can bì. Tên khoa học Hibiscus rosa-sinensis L.. Thuộc họ Bông (Malvaceae).
Dâm dương hoắc - 淫羊藿. Dâm hương hoắc (Herba Epimedii) là toàn cây phơi hay sấy khô của nhiều loài cây thuốc chi Epimedium như dâm dương hoắc lá to - Epimedium macranthum Morr-et Decne, dâm dương hoắc lá mắc - Epimedium sagittatum (Sieb, et Zucc.) Maxim. (E. sinense Sieb. ex Hance) hoặc cây dâm dương hoặc lá hình tim - Epimedium brevicornu Maxim, đều thuộc họ Hoàng liên gai (Berberidaceae). Tên dâm dương hoắc là vì cây cho lá dê hay ăn mà lại có tính chất làm tăng ham dâm dục.
Đảm phàn - 膽礬 (胆矾). Còn gọi là thạch phàn. Tên khoa học chalcanthitum, vitriolum caeruleum. Đảm phàn là một khoáng vật thiên nhiên có chứa đồng sunfat (CuSO4) hoặc là một sản phẩm do chế tạo hóa học mà có. Đảm phàn dược dùng từ lâu trong Đông y, có ghi trong "Thần nông bản thảo", một bộ sách cổ nhất của Trung Quốc.
Đạm trúc diệp - 淡竹葉 (淡竹叶). Còn gọi là trúc diệp, toái cốt tử, trúc diệp mạch đông, mễ thân thảo, sơn kê mễ. Tên khoa học Lophatherum gracile Brongn. (Acroelytrum japonicum Steud.). Thuộc họ Lúa (Gramineae). Đạm trúc diệp (Herba Lophatheri) là toàn cây đạm trúc diệp phơi hay sấy khô.
Đan sâm - 丹參 (丹参). Còn gọi là huyết sâm, xích sân, huyết căn. Tên khoa học Salvia multiorrhiza Bunge. Thuộc họ Hoa môi (Labiatae). Đan sâm (Radix Salviae multiorrhizae) là rễ phơi hay sấy khô của cây đan sâm. Đan là đỏ, sâm là sâm vì rễ cây này giống sâm mà lại có màu đỏ.
Đằng hoàng - 藤黄. Còn gọi là vàng nhựa, vàng nghệ, gommegutte, đom rông, cam rông, roeng (Campuchia). Tên khoa học Garcinia hanburyi Hook. f [Cambogia gutta Lour, (non L.)]. Thuộc họ Măng cụt Clusiaceae (Guttiferae). Đừng nhầm vị đằng hoàng (Gomme gutte) với vị hoàng đằng. Đằng hoàng là vị thuốc được dùng cả trong đông y và tây y. Các tài liệu cổ của Trung Quốc đã ghi từ thế kỷ thứ X và trong Bản thảo cương mục của Lý Thời Trân (Trung Quốc) có ghi vị này (Thế kỷ XVI). Đằng hoàng được dùng ở châu Âu vào năm 1603 (lúc đầu người ta cho đây là dịch mủ của một cây loại xương rồng, mãi tới 1864 Hanburyi mới nghiên cứu xác minh cẩn thận).
Đảng sâm - 黨參 (党参). Còn gọi là phòng đảng sâm, lộ đảng sâm, xuyên đảng sâm, đông đảng sâm, rầy cáy (Lạng Sơn), mần cáy. Tên khoa học Codonopsis sp. Thuộc họ Hoa chuông (Campanulaceae). Đảng sâm (Radix Codonopsis) là rễ phơi khô của nhiều loài Codonopsis như Codonopsis pilosula (Franch) Nannf, Codonopsis tangshen Oliv. (xuyên đảng sâm) và một số Codonopsis khác, đều thuộc họ Hoa chuông. Tên đảng sâm là do vị thuốc giống như sâm, sản xuất ở một địa phương gọi là quận Thượng Đảng (Trung Quốc). Ở Cao Bằng, Lạng Sơn, người Thổ gọi đảng sâm là cỏ rầy cáy, hay mần cáy, lầy cáy.
Dành dành - 栀子. Còn gọi là sơn chi tử, chi tử. Tên khoa học Gardenia jasminoides Ellis (Gardenia florida L.). Thuộc họ Cà phê (Rubiaceae). Cây dành dành cho ta vị thuốc gọi là chi tử. Chi tử (Fructus Gardeniae) là quả dành dành chín phơi hay sấy khô. "Chi" là chén đựng rượu, "tử" là quả hay hạt, vì quả dành dành giống cái chén uống rượu ngày xưa. Gardenia là tên nhà y học kiêm bác học, Florida là nhiều hoa.
Đào - 桃. Tên khoa học Prunus persica Stokes (Amygdalus persica L.). Thuộc họ Hoa hồng (Rosaceae). Cây đào cho ta các vị thuốc: (1) Nhân hạt đào tức là đào nhân (Semen Persicae); (2) Nước cất lá đào (Aqua Persicae).
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]