Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

CAM THẢO BẮC - 甘草

Còn có tên là bắc cam thảo, cam thảo, sinh cam thảo, quốc lão.

Tên khoa học Clycyrrhiza uralensis Fish và Glycyrrhiza glabra L. (G. glandulifera Waldst et Kit).

Thuộc họ Cánh bướm Fabaceae (Papilionaceae).

CAM THẢO BẮC, 甘草, bắc cam thảo, cam thảo, sinh cam thảo, quốc lão, Clycyrrhiza uralensis Fish, Glycyrrhiza glabra L., G. glandulifera Waldst et Kit, họ Cánh bướm Fabaceae, Papilionaceae

Cây cam thảo bắc - Glycyrrhiza uralensis

CAM THẢO CHÂU ÂU, 甘草, cam thảo, Clycyrrhiza uralensis Fish, Glycyrrhiza glabra L., G. glandulifera Waldst et Kit, họ Cánh bướm Fabaceae, Papilionaceae

Cam thảo Châu Âu - Glycyrrhiza glabra

Cam thảo (Radix Glycyrrhizae) là rễ và thân rễ phơi hay sấy khô của cây cam thảo nguồn vùng Uran (Glycyrrhiza uralensis) hay cây cam thảo châu Âu Glycyrrhiza glabra L.

Tên cam thảo vì cam là ngọt, thảo là cỏ; cỏ có vị ngọt.

Glycyrrhiza vì do chữ Hy lạp glykos là ngọt và riza là rễ, rễ có vị ngọt, uralensis vì sản xuất ở vùng núi Uran, dãy núi nằm giữa châu Á, châu Âu.

A. MÔ TẢ CÂY

Cây cam thảo (Glycyrrhiza uralensis) là một cây sống lâu năm thân có thể cao tới 1m hay 1,50m. Toàn thân cây có lông rất nhỏ.

Lá kép lông chim lẻ; lá chét  9-17, hình trứng, đầu nhọn, mép nguyên, dài 2-5,5cm, rộng 1,5-3cm.

Vào mùa hạ và mùa thu nở hoa màu tím nhạt, hình cánh bướm dài 14-22mm (cây trồng ở Việt Nam sau 3 năm chưa thấy ra hoa).

Quả giáp cong hình lưỡi liềm dài 3-4cm, rộng 6-8cm, màu nâu đen, mặt quả có nhiều lông. Trong quả có 2-8 hạt nhỏ dẹt, đường kính 1,5-2mm màu xám nâu, hoặc xanh đen nhạt, mặt bóng.

Tại Trung Quốc mùa hoa tháng 6-7, mùa quả tháng 7-9.

Cây cam thảo Glycyrrhiza glabra rất giống loài cam thảo G. uralensis, nhưng khác ở chỗ lá chét thuôn dài hơn, dài 1,5-4cm, rộng 0,8-2,3mm, quả giáp thẳng hoặc hơi cong, dài 2-3cm, rộng 4-4mm, mặt quả gần như bóng hoặc có lông ngắn, số hạt ít hơn loài trên. Mùa hoa tháng 6-8, mùa quả tháng 7-9.

B. PHÂN BỐ, THU HÁI VÀ CHẾ BIẾN

Cây cam thảo bắc trước đây không có ở nước ta.

Từ năm 1958, chúng tôi đã bắt đầu trồng thử một số bằng những hạt giống của loài Glycyrrhiza uralensis do Liên Xô cũ cung cấp. Cây mọc khỏe vào xuân hạ và thu. Đến mùa đông thì lụi đi hoặc kém phát triển. Sang năm sau cây lại mọc tốt. Lượng hoạt chất trong rễ mỗi năm mỗi tăng. Tuy nhiên sau 3 năm cây vẫn chưa ra hoa. Có tài liệu nói cây trồng thường không có hoa.

Trồng bằng hạt hoặc bằng thân rễ. Sau 4-5 năm trở lên có thể thu hoạch. Đào rễ và thân rễ vào mùa xuân hoặc thu đông. Nhưng mùa thu đông cam thảo tốt hơn. Mỗi hecta có thể thu hoạch 8-10 tấn. Vì là một cây lâu năm mới thu hoạch cho nên trong 2-3 năm đầu người ta trồng xen các cây thực phẩm. Khi đào thường người ta chỉ lấy rễ, nhưng nhiều khi lấy cả thân rễ. Thân rễ rất dài, có khi tới 7-8m.

Sau khi đào rễ, người ta xếp thành đống để cho hơi lên men, làm cho rễ có màu vàng sẫm hơn, là màu người ta chuộng hơn.

Tại Liên Xô cũ, Trung Quốc và nhiều nước khác cây cam thảo mọc hoang và trở thành một thứ cỏ khó diệt trừ, chỉ một mẩu thân rễ có thể trở thành một bụi cam thảo và cứ như vậy lan ra rộng mãi. Những khu vực cam thảo mọc hoang là những nơi có đất khô, đất có canxi, đất cát, đất cát vàng. Những nơi có đất đen cứng chắc, kiềm tính và ẩm thấp thì chất lượng cam thảo kém hơn, nhiều xơ, ít bột, ít ngọt, rễ mọc cong queo.

C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Trong cam thảo người ta đã phân tích thấy 3-8% glucoza, 2,4-6,5% sacaroza, 25-30% tinh bột, 0,3-0,35% tinh dầu, 2-4% asparagin, 11-30mg% vitamin C, các chất anbuyminoit, gôm, nhựa v.v...

Nhưng hoạt chất chính trong cam thảo là chất glyxyridin (glycyrrhizin) với tỷ lệ 6-14%, có khi tới 23%.

IMG

Glyxyridin là muối canxi và kali của axit glyxyrizic.

IMG

Công thức thô của axit glyxyrizic là C42H62O16. Axit glyxyrizic là một saponin tritecpenic, có độ chảy 205º α20ºD = +58,5º hơi tan trong cồn và nước nóng, không tan trong ête. Thủy phân sẽ cho một phân tử axit glyxyretic còn gọi là glyxyritin và 2 phân tử axit glycuronic.

Chất glycyrrhizin được nhà bác học Đức Đôbêrâyne nghiên cứu và chiết suất từ năm 1819. Nhưng mãi đến năm 1843 người ta mới bắt đầu nghiên cứu cấu tạo hóa học của nó và gần đây mới xác định được chính xác.

Axit glyxyretic không có vị ngọt, nhưng glyxyrizin và nhất là glyxyrizin phối hợp với amoniac hay thổ kiềm loại càng ngọt hơn. Pha loãng 1/20.000 vẫn còn vị ngọt.

Mới đây các nhà nghiên cứu Nhật Bản, còn chiết suất được từ cam thảo một sắc tố màu vàng dẫn xuất flavon gọi là liquiritin C21H22O9.

Nghiên cứu loại cam thảo G. uralensis trồng ở vườn Trường đại học dược Hà Nội, chúng tôi thấy sau một năm rễ cam thảo có tỷ lệ 1% glyxyrizin và sau 2 năm tỷ lệ lên 2%. Chúng tôi còn đang tiếp tục theo dõi.

D. TÁC DỤNG DƯỢC LÝ

Trước đây tây y chỉ coi cam thảo như một vị thuốc phụ có tác dụng hỗ trợ, làm cho đơn thuốc dễ uống, trái lại đông y coi vị cam thảo có khả năng chữa rất  nhiều bệnh và dùng trong hầu hết các đơn thuốc.

Gần đây do những công trình nghiên cứu mới, vai trò cam thảo ngày càng được chú ý, nhiều kết quả nghiên cứu trong phòng thí nghiệm và trên lâm sàng đã chứng minh kinh nghiệm cổ truyền của nhân dân.

1. Tác dụng giải độc của cam thảo:

a. Hậu Đằng Chinh, Trung Đảo Sinh Nam và Đại Một Nhất Hùng (1950) dùng muối natri của axit glyxyrizic thí nghiệm trên tim cô lập của ếch theo phương pháp Clark thấy natri glyxyrizat có tác dụng chống lại với tác dụng của cloral hydrat, physistigmin, axetyl-cholin, pilocacspin và yohimbin.

   Đối với histamin và cocain cũng có tác dụng chống lại.

   Natri glyxyrizat có tác dụng làm mạnh tim như chất adrenalin.

b. Tam Hảo Anh Phu báo cáo trong Nhật tân y học 39 (7): 358, 1952 như sau: Muối kali và canxi của axit glyxyrizic có tác dụng giải độc rất mạnh đối với độc tố của bạch cầu, chất độc của cá (??)lợn, của rắn, hiện tượng choáng.

c. Cửu Bảo Mộc Hiến và Tinh Kỳ Hòa Tử (Nhật Bản, 1954) đã báo cáo rằng chất glyxirizin có khả năng giải độc do strienin: Các tác giả đã tiêm strenin nitrat cho chuột nhắt cân nặng 15g cho đến hiện tượng trúng độc, đồng thời đối với một lô chuột khác thì tiêm kali nitrat và glyxyrizin, kết quả với liều 0,10mg strienin nitrat, toàn bộ chuột chết trong vòng 10 phút còn lô chuột có tiên cả glyxyrizin với liều 12,5mg thì chỉ có 58% chuột chết, nếu dùng nửa số liều gây chết (D.L.50) của stricnin nitrat là 0,02mg/10g thì tỷ lệ tử vong của chuột là 58,3% trong khi đó lô có tiêm stricnin nitrat đồng thời tiêm cả glyxyrizin thì không một con chuột nào bị chết cả.

   Các tác giả còn cho biết khả năng giải độc của cam thảo có liên quan tới sự thủy phân glyxyrizin ra axit glycuronic.

d. Năm 1953, Otto Gessner còn cho biết cam thảo có khả năng giải chất độc của độc tố uốn ván.

e. Năm 1956, Từ Tá Hạ, Diệm Ứng Cử và Bì Tây Bình đã báo cáo trong Trung Hoa y học tạp chí (8: 755-766) rằng: Cam thảo có tác dụng giải độc đối với độc tố uốn ván.

g. Cũng trong năm 1956, Diệm Ứng Cử và Trương Tín Chi đã thí nghiệm cho thỏ và chuột nhắt uống dung dịch cam thảo 25-50% cũng với mocphin clohydrat, cocain clohydrat, stricnin nitrat, atropin sunfat, chloralhydrat, để xem khả năng giải độc thì thấy uống 4ml dung dịch cam thảo 25%/1 kg thể trọng có thể giải độc của cocain clohydrat (5mg/kg tiêm dưới da) và cloral hydrat (0,2g/kg thụt).

2. Tác dụng như coctison:

a. Theo J. A. Molhuysen (1950) cam thảo có tác dụng gần như coctison tăng sự tích nước và muối NaCl trong cơ thể gây ra thủy thũng đồng thời trị các vết loét trong bộ máy tiêu hóa.

b. Năm 1946, Reaver đã dựa vào đơn một biệt dược chữa đau dạ dày lưu hành tại một tỉnh nhỏ tên là Netherland gồm có cam thảo, quả tiểu hồi và nuối sắt ferơ, đã chỉ dùng cam thảo điều trị các bệnh loét đường tiêu hóa, kết quả sau vài ngày uống thuốc, các triệu chứng trường diễn của loét đều mất hết và sau 3 tuần lễ, kiểm tra bằng X quang thấy vết loét hoàn toàn bình phục, nhưng 1/5 những người được điều trị bằng cao cam thảo có hiện tượng thủy thũng, lúc đầu xuất hiện ở mặt, sau toàn thân, một vài bệnh nhân thấy hơi nhức đầu, lao động chân tay thì thấy thở khó khăn và bị đau ở phía trên bụng.

c. Năm 1953, Card căn cứ vào một số thí nghiệm trên chuột bạch, lại kết luận rằng tác dụng của cam thảo không giống tác dụng của desoxycocticosteron.

3. Tác dụng đối với vị toan (nước chua của dạ dày):

   Năm 1951, Chu Nhan và Chu  Kim Hoàng (Trung Quốc) đã dựa vào kết quả thực tế cam thảo chữa bệnh đau dạ dày thí nghiệm xem ảnh hưởng đối với vị toan.

   Kết quả thấy khi thụt 50-60ml dung dịch cam thảo 1% vào dạ dày của chó đã gây mê thì có thể hạn chế sự tăng bài tiết vị toan do tiêm dưới da 0,5-1mg chất histamin. Nhưng nếu cho chó có dạ dầy nhỏ theo phương pháp Pavlov uống liên tục từ 14-24 ngày với liều 0,2-1g/kg thể trọng, sau khi đã tiêm dưới da 0,2-0,4 histamin để gây tăng vị toan thì kết quả không rõ rệt. Tác dụng giảm vị toan do tác dụng trực tiếp chứ không phải do phản xạ.

4. Tác dụng tiêu giật (spasmolytique) đối với cơ trơn ống tiêu hóa:

   Năm 1956,  H. Berger và H. Holler đã thí nghiệm so sánh tác dụng của nước cam thảo với papaverin clohydrat thì thấy kết quả là 1/450 và 1/3.100.

5. Tác dụng của nội tiết tố dục tính:

   Năm 1950, Christopher H. Costello (J. Amer. Pharmaceut. Ass.) đã báo cáo rằng trong cam thảo có chất tác dụng như nội tiết tố dục tính đối với âm đạo với âm đạo chuột bạch.

6. Tác dụng khác:

   Một số tác giả khác còn cho rằng cam thảo có tác dụng lợi tiểu, tiêu viêm, chữa táo bón.

E. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Cam thảo là một vị thuốc rất thông dụng trong đông y và tây y. Ngoài ra nó còn được dùng trong kỹ nghệ thuốc lá, nước giải khát và chế thuốc chữa cháy.

Theo tài liệu cổ: Cam thảo có vị ngọt, tính bình (sau khi nướng thì tính hơi ôn); vào 12 đường kinh. Có tác dụng bổ tỳ vị, nhuận phế, thanh nhiệt giải độc, điều hòa các vị thuốc. Muốn thanh hỏa thì dùng sống, muốn ôn trong thì nướng. Nướng lên chữa tỳ hư mà ỉa lỏng, vị hư mà khát nước, phế hư mà ho. Dùng sống chữa đau họng, ung thu.

Ai cũng biết đường saccaroza, chất ngọt được tiêu thụ nhiều nhất trong khẩu phần dinh dưỡng, công nghiệp thực phẩm, công nghiệp nước ngọt nhưng ai cũng biết là ăn nhiều đường dễ mập, dễ hư răng, nguy hiểm đối với người mắc bệnh tiểu đường. Cho nên một hướng tìm tòi là thay vì ăn đường saccaroza, tìm một chất ngọt khác mà cơ thể không thể biến đường được.

Trên hướng đó người ta đã dùng đường hóa học, saccarin, ngọt gấp 300-400 lần saccaroza, glycyrrhizin của cam thảo ngọt gấp 50 lần đường, steviosit lấy từ trái cây Stevia rebaudiana ngọt gấp 300 lần, nhưng phần lớn các chất ngọt kể trên đều ít nhiều để lại một hậu vị đắng khó chịu, nhất là một số chất ngọt kể trên lại bị nghi ngờ gây ra ung thư.

Gần đây nhất, thế giới đang lưu tâm nghiên cứu một chất dầu không mầu, có vị ngọt chiết từ lá và hoa một loại cỏ nguồn gốc ở Mêhicô, có tên khoa học là Lippia dulcis Trev. thuộc họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae) gọi theo tiếng địa phương ở Mêhicô là Tzonpelic Xihuiti có nghĩa là cỏ ngọt.

Cây này đang được một số cơ quan nghiên cứu ở nước ta (ở cả hai miền) đang nghiên cứu trồng thử và chiết suất.

Chất ngọt lấy ra được đặt tên là hernandulcin để nhớ đến công ơn của Francisco Hernandez, một y sĩ Tây Ban Nha, người đầu tiên mô tả cây cỏ ngọt này giữa năm 1570-1576.

Cấu tạo hóa học của chất này đã được xác định, kiểm tra bằng tổng hợp hóa học, khác với các chất ngọt được biết từ trước tới nay. Hernandulcin thuộc nhóm sesquitecpen, có tính ổn định và dễ tổng hợp, giá thành không cao lắm.

Với cùng một số lượng phân tử như nhau, hernandulcin ngọt hơn đường saccaroza khoảng 1.000 lần. Đây là một chất ngọt tốt, qua nhiều trắc nghiệm sinh học, đã chứng tỏ có vẻ không sinh ra ung thư. Cho vào bao tử chuột với liều 2g/1kg thể trọng, hernandulcin không gây hậu quả gì tai hại.

Tuy nhiên hernandulcin vẫn chưa đáp ứng hoàn toàn yêu cầu vì hương vị của hernandulcin không gây thích thú bằng đường saccaroza và hậu vị vẫn hơi đắng. Người ta đang tìm cách tổng hợp các dẫn suất của hernandulcin có thể không còn hậu vị khó chịu mà vị ngọt vẫn có hương vị dễ chịu của đường saccaroza.

Trong y học, ngoài công dụng làm cho thuốc ngọt dễ uống, làm tá dược chế thuốc viên, thuốc ho, thuốc giải độc, hiện nay cam thảo có hai công dụng chủ  yếu:

   1. Chữa loét dạ dày và ruột. Ngày uống 3-4g, chia làm 3 lần uống trong ngày. Uống luôn 7-14 ngày. Sau đó nghỉ vài ngày để tránh hiện tượng phù nề,  nặng mặt.

   2. Chữa bệnh Ađidơn (Addison's) vì trong cam thảo có axit glyxyretic cấu tạo như coctison, nên có tác dụng tới sự chuyển hóa các chất điện giải cơ thể giữ lại natri và clorua trong cơ thể giúp sự bài tiết kali và có thể dùng điều trị bệnh Addidơn.

Năm 1956 ba tác giả Trung Quốc có báo cáo trong Trung Hoa y học tạp chí đã dùng cao lỏng cam thảo với liều 15ml một ngày, có thể tăng tới 45-60ml để điều trị 4 trường hợp bệnh nhân bị bệnh Ađidơn thì thấy thể lực tăng cường, natri trong huyết thanh tăng lên, huyết áp tăng lên, dùng phối hợp với coctison thì có thể giảm được lượng coetison.

Cũng trong năm 1956, tại số báo Trung Hoa y học tạp chí số tháng 7, bốn tác giả khác báo cáo dùng cam thảo điều trị 2 trường hợp bệnh Ađidơn với liều 20-30ml mỗi ngày (uống) kết quả rất tốt, nhưng một người phát sinh hiện tượng phù nề nhẹ, vài ngày sau tự nhiên tiêu đi, cùng số báo đó một tác giả khác giới thiệu đã điều trị khỏi một trường hợp Ađidơn với liều 20-40ml cao lỏng một này. Số tháng 8 cùng báo đó, ba tác giả khác lại giới thiệu chữa khỏi một trường hợp Ađidơn với liều 9-18ml cao lỏng cam thảo mỗi ngày, uống luôn trong 35 ngày.

Đơn thuốc có cam thảo:

   1. Cát cánh cam thảo: Chữa ho (xem vị cát cánh: http://dotatloi.com/nhung-cay-thuoc-va-vi-thuoc-viet-nam/ket-qua-tra-cuu/cat-canh).

   2. Đơn thuốc Kavét chữa đau dạ dày: Cam thảo 0,03g, bột cam thảo 0,10g, natri bicacbonat 0,15g, magiê cacbonat 0,20g, bitmutnitrat basic 0,05g, bột đại hoàng 0,02g, tá dược vừa đủ 1 viên. Chữa loét dạ dày với liều 2-4 viên mỗi lần, ngày uống 2-3 lần.

   3. Đơn thuốc chữa loét dạ dày: Chỉ có một vị cam thảo: Cao cam thảo 2 phần, nước cất một phần, hòa tan. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 1 thìa nhỏ. Không uống lâu quá 3 tuần lễ.

   4. Nhân trung hoàng chữa sốt quá hóa điên cuồng, trúng độc: Cam thảo tán nhỏ, cho vào đầy một ống tre đã cạo hết lớp tinh tre bên ngoài. Bịt kín hai đầu bằng nhựa thông. Đến mùa đông cắm cả ống tre đó vào một hố phân người, cho đến ngày lập xuân lấy ra rửa sạch, bổ ống tre lấy cam thảo phơi khô tán nhỏ.

   Phải chăng đây là một cách người xưa chế cam thảo dưới dạng muối amoniac.

   Đông y coi vị này rất quý để chữa cảm sốt quá hóa điên cuồng, trúng độc, bị mụn nhọt. Mỗi lần uống 1-2g.

   5. Cao cam thảo mền: Chữa các chứng mụn nhọt, ngộ độc. Ngày uống 1-2 thìa con.

   6. Cao cam thảo đã loại glyxyridin: Gần đây có người đã cho rằng glyxyridin không phải là hoạt chất nên đã chế cam thảo đã loại bỏ glyxyrindin đi.

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

focus Sầu riêng
11/06/2025 08:05 CH

- 榴蓮 (榴莲). Còn gọi là thu ren (Campuchia), durio. Tên khoa học Durio zibethinus Murray. Thuộc họ Bông (Bombacaceae).

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Mã đề - 車前. Còn gọi là mã đề thảo, xa tiền, nhả én, dứt (Thái), su ma (Thổ). Tên khoa học Plantago asiatica L. (Plantago major L. var. asiatica Decaisne). Thuộc họ Mã đề (Plantaginaceae). Cây mã đề cho các vị thuốc có tên sau đây: 1. Xa tiền tử: Semen plantaginis - là hạt phơi hay sấy khô. 2. Mã đề thảo: Herba plantaginis - là toàn cây trừ bỏ rễ phơi hay sấy khô. 3. Lá mã đề: Folium plantaginix - là lá tươi hay phơi hoặc sấy khô.
Ma hoàng - 麻黃. Còn gọi là thảo ma hoàng, xuyên ma hoàng sơn ma hoàng, mộc tặc ma hoàng, mộc ma hoàng, trung ma hoàng. Tên khoa học Ephedra sinica Stapf., Ephedra equisetina Bunge, Ephedra intermedia Schrenk et Mey. Thuộc họ Ma hoàng (Ephedraceae). Ma hoàng (Herba Ephedrae) là ngọn hay phần trên mặt đất của nhiều loài ma hoàng phơi hay sấy khô. Tên ma hoàng vì vị thuốc có vị ma (cay cay tê tê, không rõ rệt) màu vàng. Tên Ephedra do chữ Epi có nghĩa là trên, hedra có nghĩa là đất, ý nói là cây thuốc mọc trên đá; chữ sinica có nghĩa là cây nguồn gốc ở Trung Quốc; equisetina là một tặc ý nói có loài ma hoàng giống cây mộc tặc (cỏ tháp bút).
Mã thầy - 荸薺 (荸荠). Còn gọi là củ năn, bột tề. Tên khoa học Heleocharis plantaginea R. Br. Thuộc họ Cói (Cyperaceae).
Mã tiền - 馬錢 (马钱). Còn gọi là củ chi, sleng thom, sleng touch (Campuchia), kok toung ka (Lào), vomiquier fausse angusture, mắc sèn sứ (Thổ) co bên kho (Thái). Tên khoa học Strychnos nuxvomica L. Thuộc họ Mã tiền (Loganiaceae). Tên mã tiền dùng để chỉ nhiều cây khác nhau thuộc chi Strychnos cho những hạt giống như chiếc khuy áo lớn, và có chứa những ancaloit có tác dụng mạnh chủ yếu là strycnin và bruxin. Có cây là cây đứng, có cây là dây leo. Nhiều cây leo chưa được xác định tên chắc chắn, thường chỉ mới tạm xác định là Strychnos sp. Có khi cùng một loài nhưng nếu khai thác hạt người ta gọi là cây mã tiền, nếu khai thác vỏ người ta lại gọi là cây hoàng nàn. Tên Strychnos do chữ Hy Lạp có nghĩa là những cây có độc, nux có nghĩa là quả cứng, vomica nghĩa là gây nôn, ý nói Strychnos nuxvomica là một cây có độc, quả cứng gây nôn.
Mắc kẹn - 七葉樹 (七叶树). Còn gọi là bàm bàm, ma keyeng, may kho, marronier. Tên khoa học Aesculus sinenisis Bunge. Thuộc họ Bồ Hòn (Sapindaceae).
Mắc nưa - 柿油樹. Còn gọi là mặc nưa, mac leua (Cămpuchia). Tên khoa học Diospyros mollis Griff. Thuộc họ Thị (Ebenaceae).
Mạch ba góc - 蕎麥 (荞麦). Còn gọi là tam giác mạch, lúa mạch đen, kiều mạch, sèo (Lào Cai, Yên Bái). Tên khoa học Fagopyrum esculentum Moench. (Fagopyrum sagittatum Cilib). Thuộc họ Rau răm (Polygonaceae). Ta có thể dùng toàn cây nhưng chủ yếu là lá và hoa của mạch ba góc để làm nguyên liệu chiết rutin.
Mạch môn đông - 麥門冬. Còn có tên là mạch đông, cây lan tiên. Tên khoa học Ophiopogon japonicus Wall. Thuộc họ Hành tỏi (Liliaceae). Người ta dùng rễ củ phơi hay sấy khô (Radix Ophiopogoni) của cây mạch môn đông. Vì lá giống lá lúa mạch, về mùa đông lá vẫn xanh tươi nên gọi là mạch đông.
Mạch nha - 麥芽. Tên khoa học Maltum. Mạch nha chính thức là hạt lúa mạch Hordeum sativum Jess. var. vulgare Hack hoặc một loài Hordeum khác thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae) cho mọc mầm, rồi sấy khô ở nhiệt độ dưới 60 độ. Ở Việt Nam ta vì chưa có lúa mạch, vẫn dùng hạt thóc tẻ (thóc chiêm hay thóc mùa đều được) Oryza sativa L. var. utilissima cùng họ để ngâm cho nẩy mầm rồi phơi khô, gọi là cốc nha. Muốn có thóc nẩy mầm, chỉ cần đãi thóc sạch đất cát, ngâm nước cho ẩm, sau đó ủ kín, thỉnh thoảng tưới nước để giữ ẩm đều, sau vài ngày hạt thóc nảy mầm, khi nào một số mầm bắt đầu xanh thì lấy ra phơi nắng cho khô, để nguyên hoặc tán nhỏ, sãy hết trấu mà dùng.
Mai mực - 海螵鞘. Còn gọi là hải phiêu tiêu, mai cá mực, ô tặc cốt. Tên khoa học Sepia esculenta Hoyle, Sepiaandreana Steen-Strup. Thuộc họ Cá mực (Sepiidae). Ô tặc cốt - Os Sepiae là mai rửa sạch, phơi khô của con mực nang hay mực ván (Seppiaesculenta Hoyle) hoặc của con mực ống, mực cơm (Sepiidae) nhưng chủ yếu là mực nang hay mực ván vì mực cơm hay mực ống có mai nhỏ. Tên ô tặc vì theo cách sách cổ, con cá mực thích ăn thịt chim, thường giả chết nổi trên mặt nước, chim tưởng là xác chết, bay sà xuống để mổ, bị nó lôi xuống nước ăn thịt, ăn thịt nhiều quạ do đó thành tên vì ô là quạ, tặc là giặc, cốt là xương; ý nói xương của giặc đối với quạ. Tên hải phiêu tiêu vì vị thuốc giống tổ con bọ ngựa mà lại gặp ở ngoài bể (phiêu tiêu là tổ bọ ngựa).
Mâm xôi - 粗葉懸鉤子 (粗叶悬钩子). Còn gọi là đùm đũm. Tên khoa học Rubus alceaefolius Poir. (Rubus fimbriifeus Focke). Thuộc họ Hoa hồng (Rosaceae).
Màn kinh tử - 蔓荊子. Còn gọi là kinh tử, vạn kim tử, quan âm, thuốc kinh, thuốc ôn, đẹn ba lá. Tên khoa học Vitex trifoolia L. Thuộc họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae). Màn kinh tử (Fructus Viticis) là quả chín phơi hay sấy khô của cây quan âm hay cây màn kinh, còn gọi là cây thuốc ôn. Màn là mọc lan ra, kinh là gai. Thứ cây này mọc lan ra mặt đất, nên gọi tên như vậy.
Mần tưới - 澤蘭 (泽兰). Còn gọi là hương thảo, lan thảo, Ayapana du Tonkin. Tên khoa học Eupatorium staechadosmun Hance. Thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae).
Măng cụt - 山竺、山竹子. Còn gọi là sơn trúc tử, mangoustanier. Tên khoa học Garcinia mangostana L. (Mangostana garcinia Gaertn.). Thuộc họ Bứa Clusiaceae (Guttferae). Tuy mang tên sơn trúc tử tại Trung Quốc, nhưng Trung Quốc không có cây này, vẫn phải nhập từ nước ngoài vào.
Màng tang - 澄茄子. Còn gọi là tất trừng già. Tên khoa học Litsea cubeba (Lour.) Pers. Thuộc họ Long não (Lauraceae).
Mang tiêu - 芒硝. Còn gọi là phác tiêu, huyền minh phấn. Tên khoa học Mirabilita, Natrium Sulfuricum, Sal Glauberis. Mang tiêu (Natrium Sulfuricum, Sal Glauberis) là muối natri sunfat thiên nhiên tinh chế mà thành. Huyền minh phấn (Natrium Sulfuricum exciccatum) còn gọi là nguyên minh phấn, hay phong hóa tiêu là mang tiêu khử hết nước.
Mật động vật (đởm) Đông y và Tây y đều dùng mật động vật làm thuốc, nhưng Tây y chỉ hay dùng mật lợn, mật bò. Còn Đông y dùng mật của nhiều loài như mật gấu, mật dê, mật lợn, mật bò, mật trăn, mật rắn, mật gà, mật cá chép, .v.v.
Mật gấu - 熊膽 (熊胆). Còn gọi là hùng đởm. Tên khoa học Fel Ursi. Thuộc họ Gấu (Ursidae). Mật gấu (Fel Ursi) là túi mật phơi hay sấy khô của nhiều loài gấu Ursus sp. Ở Việt Nam, thường là loài gấu ngựa Selenarctos thibetanus G. Cuvier. có khoang như chữ V trắng ở ngực. Đôi khi có loài gấu chó hay gấu đen, gấu xám (hiếm hơn) Ursus arctos lisiotus Gray.
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]