Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

CÁ NÓC - 河豚

Còn gọi là cá cóc.

Tên khoa học Tetrodon ocellatus.

Thuộc họ Cá nóc (Tetrodontidae).

CÁ NÓC, 河豚, cá cóc, Tetrodon ocellatus, họ Cá nóc, Tetrodontidae

Cá nóc - Tetrodon ocellatus

A. MÔ TẢ CON VẬT

Cá nóc là tên dành cho nhiều loài cá khác nhau, có thân hình đặc biệt: Thân ngắn, vảy kém phát triển, có răng gắn với nhau thành tấm, kém hoạt động, đặc biệt có bụng phình bầu ra. Khi tự vệ, cá nóc hay ngậm hơi lại, làm phồng mình như chiếc bong bóng, rồi ngửa bụng lên trời, lờ đờ trôi theo dòng nước, thỉnh thoảng chỉ hơi vẫy cái đuôi ngắn của nó. Nằm như vậy, cá không sợ giống gì hại nổi, vì mặt dưới lưng cá lởm chởm đầy gai, phía trên, răng cá vừa lớn, vừa sắc như dao, lại quằm vào một cái mỏ như mỏ chim vẹt.

Người ta đã thống kê được khoảng 60 loài mang tên cá nóc, trong đó khoảng 30 loài là có độc.

Ở nước ta có những loài cá nóc sống ở nước ngọt như cá nóc hạt mít Tetrodon ocellatus, cá nóc vàng Tetrodon naritus. Nhưng phần nhiều cá nóc sống ở nước mặn, tất cả khoảng 20 loài đã thống kê được ở nước ta.

Có những loài như cá nóc hòm Ostracion gibbosus, có thân ẩn trong một bộ giáp cứng; cá nóc nhím Diodon holacanthus ở vùng biển cạn, hoặc vùng đá san hô; cá nóc gáo - Tetrodon lunaris.

B. PHÂN BỐ, THU BẮT VÀ CHẾ BIẾN

Cá nóc sống ở vùng biển ấm trên thế giới nhiều nhất ở vùng biển Ấn Độ, Thái Bình Dương.

Một số nơi bắt cá nóc về để ăn và làm mắm, nhưng vì một số cá nóc có độc, cho nên thường gây những vụ ngộ độc. Bị cá nóc cắn cũng có thể gây thương tích và ngộ độc.

Một số gan cá nóc được dùng ép lấy dầu làm thuốc.

C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Cá nóc độc do nhiều chất độc như ciguatoxin tan trong chất béo, ciguaterin tan trong nước; gần đây người ta chiết được chất tetrodotoxin và xác định là một chất aminopehydroquinazolin có công thức thô là C11H17N3O8.

Những chất độc này tập trung chủ yếu trong gan, ruột và cơ bụng, đặc biệt độ độc của cá nóc rất cao trong mùa đẻ trứng (từ tháng 2 đến tháng 7).

Những chất độc của cá nóc không bị nhiệt phá hủy cho nên sau khi nấu chín vẫn gây ngộ độc, có khi lại làm tăng thêm độc tính. Thường thì chất độc của cá nóc không có trong thịt cá nóc, nhưng vì một số ngư dân khi đánh lưới được cá nóc, thường đập chết ngay trong thuyền, làm cho trứng và ruột cá bị dập, làm cho chất độc ngấm qua thịt và làm cho thịt cá nóc cũng chứa chất  độc. Cho nên ta thấy có trường hợp khi làm cá đã bỏ hết ruột, gan đi mà vẫn bị ngộ độc.

Trên thực nghiệm, chất độc cá nóc tác dụng trên thần kinh trung ương làm tê liệt cơ thể, ngừng trệ sự tuần hoàn và hô hấp. Chỉ cần tiêm 4 miligam chất tetrodotoxin cho một con thỏ cân nặng 1kg cũng đủ làm con thỏ chết ngay.

Người bị ngộ độc do ăn cá nóc thường thấy những triệu chứng xuất hiện sau khi ăn từ 2 đến 24 giờ, tùy theo tạng người, số lượng cá ăn và tùy theo loại cá nóc ăn phải nữa. Trường hợp ngộ độc nặng có thể xuất hiện sua khi ăn 30 phút: Nạn nhân thường bị tê môi, tê lưỡi, cảm giác kiến bò ở đầu ngón tay, ngón chân, tiếp theo nôn mửa, đầu choáng váng, đau đớn khó chịu ở vùng trán và trong lòng con mắt, đồng tử dãn nở, tay chân bị tê liệt, da tím ngắt nhiệt độ và huyết áp thấp. Trong vòng 2 giờ, nếu không cứu chữa, bệnh nhân hoàn toàn tê bại, cứng hàm dưới, tuy người tỉnh táo. Chỉ ngay trước khi chết, bệnh nhân mới bất tỉnh và mê man và chết do liệt hô hấp. Tỷ số người chết do ngộ độc cá nóc lên tới 60% trong vòng từ 1 đến 24 giờ sau khi ăn phải cá nóc. Nếu bệnh nhân sống quá 24 giờ, thì hy vọng có thể cứu sống nhiều hơn.

Chất độc trong cá nóc là tetradotoxin. Tetradotoxin gây hiện tượng giảm hô hấp và phong bế cơ thần kinh. Nhưng với liều lượng rất nhỏ lại được dùng làm chất làm dịu ở giai đoạn cuối của ung thư (Pharmaceutical journal, vol. 212-577, London, June 8, 1974: 528).

D. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Cá nóc thường gây ra nhiều vụ ngộ độc, đặc biệt từ đầu tháng 2 đến tháng 7, cho nên ghi chép lại đây để nhân dân biết mà đề phòng.

Theo những nhà phân loại cá, thì hiện nay việc phân loại cá nóc độc và không độc chưa chính xác cho nên tốt hơn hết là không nên ăn thịt cá nóc, cũng như không nên phơi khô cá nóc làm mắm.

Khi bị ngộ độc cá nóc, nhân dân thường cho nạn nhân uống nước dừa, nước hoa quả trám trắng để giải độc. Tại các bệnh viện, hiện nay cũng chưa có một thứ thuốc giải độc đặc hiệu đối với cá nóc, mà thường cứu chữa theo các triệu chứng ngộ độc.

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

focus Bìm bịp
26/06/2025 08:29 CH

- 紅毛雞 (红毛鸡). Nhân dân dùng cả hai loài bìm bịp làm thuốc: (1) Bìm bịp lớn - Centropus sinensis intermedius Hume; (2) Bìm bịp nhỏ - Centropus bengalensis bengalensis Gmelin.

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Phan tả diệp - 番瀉葉 (番写叶). Còn gọi là hiệp diệp phan tả diệp, tiêm diệp, phan tả diệp, séné. Tên khoa học Cassia angustifolia Vahl và Cassia acutifolia Delile. Thuộc họ Vang (Caesalpiniaceae). Phan tả diệp (Folium sennae) là lá phơi hay sấy khô của cây phan tả diệp lá hẹp Cassia angustifolia Vahl hay cây phan tả diệp lá nhọm Cassia acutifolia Delile, đều thuộc họ Vang (Caesalpiniaceae). Phan tả diệp là một vị thuốc thường dùng trong cả đông y và tây y, và là một vị thuốc phải nhập. Tả diệp = lá gây đi ỉa lỏng, mọc ở nước Phiên (một nước, ở biên giới Trung Quốc xưa kia) đọc chệch là Phan.
Phật thủ - 佛手. Còn gọi là phật thủ phiến, phật thủ cam. Tên khoa học Citrus medica L.var. sarcodactylus Sw. (Citrus medica L. var. digitata Riss.). Thuộc họ Cam quít (Rutaceae). Ta dùng quả phơi khô (Fructus Citri sarcodactyli) của cây phật thủ.
Phèn đen - 龍眼睛 (龙眼睛). Còn gọi là nỗ. Tên khoa học Phyllanthus reticulatus Poir. Thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae).
Phòng kỷ - 粉防己, 廣防己 (广防己), 木防己. Còn gọi là hán phòng kỷ, quảng phòng kỷ, mộc phòng kỷ, phấn phòng kỷ, hán trung phòng kỷ. Phòng có nghĩa là phòng ngừa, kỷ là cho mình; ý nói là vị thuốc có tác dụng phòng ngừa tật bệnh cho mình. Phòng kỷ là tên dùng để chỉ nhiều vị thuốc, nguồn gốc thực vật khác hẳn nhau. (1) Phấn phòng kỷ hay phòng kỷ: Radix Stephaniae là rễ phơi hay sấy khô của cấy phấn phòng kỷ (Stephania tetrandra S. Moore) thuộc họ Tiết dê (Menispermaceae). (2) Quảng phòng kỷ hay mộc phòng kỷ, đẳng phòng kỷ, phòng kỷ (Quảng Tây): Là rễ phơi hay sấy khô của cây quảng phòng kỷ (Aristolochia westlandi Hemsl.) thuộc họ Mộc thông (Aristolochiaceae). (3) Hán trung phòng kỷ: Radix Aristolochiae heterophyllae là rễ phơi hay sấy khô của cây hán trung phòng kỷ hay thành mộc hương (Aristolochia heterophylla Hemsl.) cùng họ Mộc thông (Aristolochiaceae). (4) Mộc phòng kỷ: Là rễ phơi hay sấy khô của cây mộc phòng kỷ (Cocculus trilobus DC.) thuộc họ Tiết dê (Menispermaceae).
Phòng phong - 防風 (防风). Trên thực tế, phòng phong không phải là một vị thuốc, mà là nhiều vị do nhiều cây khác nhau cung cấp. Chỉ kể một số cây chính: (1) Xuyên phòng phong - (Radix Ligustici brachylobi) là rễ khô của cây xuyên phòng phong (Ligusticum brachylobum Franch) thuộc họ Hoa tán Apiaceae(Umbelliferae); (2) Phòng phong hay thiên phòng phong - (Radix Ledebouriellae seseloidis) còn gọi là đông phòng phong hay bàng phong là rễ khô của cây phòng phong (Ledebouriella seseloides Wolff.) cùng thuộc họ Hoa tán Apiaceae (Umbelliferae); (3) Vân phòng phong còn gọi là trúc diệp phòng phong (Radix Seseli) là rễ khô của cây phòng phong Vân Nam (Seseli delavayi Franch.) thuộc họ Hoa tán (Umbelliferae). Vân phòng phong còn do cây phòng phong lá thông (tùng diệp phòng phong-Seseli yunnanense Franch) cùng họ cung cấp nữa. Ngoài những cây chính kể trên, có nhiều nơi còn dùng rễ những cây Carum carvi L., tiền hồ hoa trắng (Peucedanum praeruptorum Dunn), Siler divaricatum Benth. et Hook., pimpinella candolleana Wright et Arn, v.v... đều thuộc họ Hoa tán.
Phù dung - 木芙蓉. Còn gọi là mộc liên, địa phù dung. Tên khoa học Hibiscus mutabilis L. (Hibiscus sinensis Mill). Thuộc họ Bông (Malvaceae). Ta thường dùng hoa và lá tươi hoặc khô của cây phù dung để làm thuốc.
Phục linh - 茯苓. Còn có tên là bạch phục linh, phục thần. Tên khoa học Poria cocos Wolf. (Pachyma hoelen Rumph.). Thuộc họ Nấm lỗ (Polyporaceae).
Phượng nhỡn thảo - 臭椿. Còn gọi là Faux vernis du Japon, Ailante. Tên khoa học Ailantus glandulosa Desf. Thuộc họ Thanh thất (Simarubaceae).
Preah phneou Còn gọi là Chiều liêu, preas phnau, pras phneou (Campuchia). Tên khoa học Terminalia nigrovenulosa Pierre. Thuộc họ Bàng (Combretaceae). Preah phneou là tên Campuchia của một loài chiều liêu. Vì tên này được giới thiệu dùng trong thuốc dầu tiên cho nên cứ giữ tên này.
Qua lâu nhân - 瓜婁仁. Còn gọi là hạt thảo ca, qua lâu, quát lâu nhân. Tên khoa học Trichosanthes sp. Thuộc họ Bí (Cucurbitaceae). Qua lâu nhân, qua lâu (Semen Trichosanthis) là hạt phơi hay sấy khô của nhiều loài Trichosanthes như Trichosanthes kirilowii Maxim, Trichosanthes multiloba Miq. v.v...đều thuộc cùng một họ Bí (Cucurbitaceae). Ngoài vị qua lâu nhân, cây qua lâu hay thao ca còn cho các vị thuốc khác sau đây: (1) Qua lâu bì Pericarpium Trichosanthis là vỏ quả phơi hay sấy khô. (2) Thiên hoa phấn hay qua lâu căn (Radix Trichosanthis) là rễ phơi hay sấy khô của cây thao ca hay qua lâu.
Quán chúng - 貫眾. Quán chúng là một vị thuốc tương đối hay dùng trong Đông y. Tuy nhiên nguồn gốc rất phức tạp và chưa thống nhất. Chúng tôi giới thiệu tóm tắt một số tài liệu về nguồn gốc và công dụng của vị quán chúng để chúng ta tham khảo và chú ý nghiên cứu để chỉnh lý lại trên cơ sở thực tế sử dụng ở Việt Nam ta. "Quán" là xâu, chuỗi; "chúng" là nhiều, vì vị quán chúng trông giống như nhiều cành xâu vào gốc cây cho nên đặt tên như vậy. Trong sách vở, người ta mô tả, quán chúng là một thứ cây mọc ở khe núi, hình giống đuôi chim chả, da đen, thịt đỏ.
Quế - 桂. Quế là một vị thuốc rất thường dùng trong đông y và tây y. Đông y coi quế là một vị thuốc rất quý. Tại Việt Nam có nhiều loài quế. Việc xác định tên những loài quế này chưa thật chắc chắn. Tuy nhiên chúng tôi sẽ giới thiệu những tài liệu đang phổ biến. Có 3 loại quế chính: (1) Quế Thanh Hóa, Nghệ An: Cinnamomum loureirii Nees; (2) Quế loại Trung Quốc: Cinnamomum cassia Blume; (3) Quế loại Xrilanca: Cinnamomum zeylanicum Nees. Ngoài ra còn một số loài khác nữa cũng được khai thác và sử dụng.
Quế quan - 錫蘭桂 (锡兰桂). Còn gọi là quế Xrilanca. Tên khoa học Cinnamomum zeylanicum Nees (Cinnamomum aromaticum Grah, Laurus cinnamomum Roxb.). Thuộc họ Long não (Lauraceae). Quế quan hay quế Xây lan là thứ quế đứng đầu trên thị trường quốc tế. Nước sản xuất chủ yếu quế này hiện nay là Xây lan tức là Xrilanca (gần Ấn Độ).
Quế Thanh Hóa - 清化桂. Còn gọi là nhục quế, quế Thanh, quế Quỳ, cannellier royal, cannellier d'Annam. Tên khoa học Cinnamomum loureirii Nees (Cinnamomum obtusifolium Nees var. loureirii perrot et Eberh; Láuru cinnamomum Lour.). Thuộc họ Long não (Lauraceae).
Quế Trung Quốc - 肉桂. Còn gọi là quế nhục, ngọc thụ, quế đơn, quế bì, sambor lo veng (Cămpuchia). Tên khoa học Cinnamomum cassia Blume (Cinnamomum obtusifilium var cassia Perrot et Eberh.). Thuộc họ Long não (Lauraceae). Trên thị trường quốc tế, quế bì (tên ghi trong Dược điển Trung Quốc 1953) hay thường gọi là quế Trung Quốc (Cannelle de Chine) đứng hàng thứ hai sau quế Xrilanca. Trong nước ta cũng có loài quế này. Ta dùng vỏ phơi khô Cortex Cinnamomi cassiae.
Quít - Trần bì - 橘 - 橘皮. Còn gọi là quyết, hoàng quyết, trần bì, thanh bì, mandarinier (Pháp). Tên khoa học Citrus deliciosa Tenore, Citrus nobilis var. eliciosa Swigle. Thuộc họ Cam quít (Rutaceae). Cây quít cho ta các vị thuốc sau đây: 1. Trần bì (Pericarpium Citri deliciosa) là vỏ quít phơi càng để lâu càng coi là quý và tốt. 2. Quất hạch (Semen Citri diliciosae) là hạt quít phơi khô. 3. Thanh bì (Pericarpium Citri immaturi) vỏ quả quít còn xanh.
Quy bản và cao quy bản - 龜板 (龟板), 龜板膠 (龟板胶). Còn có tên là yếm rùa, kim quy, quy giáp, cao yếm rùa. Tên khoa học Chinemya (Geoclemys) recvesil (Gray). Thuộc họ Rùa (Testudinidae). Người ta dùng yếm của con rùa hay quy bản, Carapax testudinis và cao chế từ yếm rùa (Colla carapacis Testudinis) còn gọi là cao quy bản hay quy bản giao.
Rắn - 蛇. Rắn dùng làm thuốc gồm nhiều loài, thường là những loài rắn độc. Người ta hay dùng 3 loài rắn độc mang tên rắn hổ mang, rắn cạp nong, rắn cạp nia. Nhưng những tên đó nhiều khi lại được dùng đẻ chỉ nhiều loài rắn khác nhau. Ta cần chú ý phân biệt. Rắn lại cung cấp cho ta nhiều bộ phận làm thuốc: Thịt rắn, xác lột (xà thoái) và nọc độc. Tây y thường chỉ dùng nọc rắn, đông y lại thường chỉ dùng thịt, mật và xác rắn lột.
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]