Giới thiệu sách

Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam: Cơ sở lý luận về tìm thuốc và tác dụng của thuốc theo Đông y (Phần 03)

Nguồn tin:  Sách Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam
Cập nhật: 11/12/2024 11:43 CH

IMG


H. Vận dụng Thuyết Âm Dương trong y dược

1. Phòng bệnh:

    Muốn đề phòng bệnh tật giữ gìn sức khỏe, phải nắm vững quy luật biến hóa của giới tự nhiên và ứng với sự biến hóa đó, cần giữ gìn nhịp điệu thăng bằng giữa con người và ngoại cảnh.

    Mùa Xuân, mùa Hạ thì dưỡng Dương khí, mùa Thu, mùa Đông thì dưỡng Âm khí.

2. Chẩn đoán và điều trị:

    Khi chẩn đoán nhìn thấy (vọng) bệnh nhân mặt đỏ, tươi sáng, mắt sáng ngời, da hồng nhuận, thì phần nhiều bệnh thuộc chứng Dương; nếu sắc mặt nhợt nhạt, sám tối, có khi xanh bầm hoặc vàng đen, mắt lờ đờ, cử động chậm chạp thì thuộc chứng Âm.

    Khi nghe (văn) bệnh nhân nói hay thở, thấy hơi thở, tiếng nói mạnh mẽ thì thuộc bệnh Dương, hơi thở, tiếng nói nhỏ yếu thì thuộc bệnh Âm.

    Khi hỏi (vấn) bệnh nhân, thấy bệnh nhân nóng sốt, khát muốn uống nước luôn, đại tiện bí táo, phải nghĩ đến bệnh Dương; trái lại nếu bệnh nhân sợ rét lạnh, đại tiện lỏng, chân tay mát, phải nghĩ đến bệnh thuộc Âm.

    Khi bắt mạch (thiết), nếu mạch phù nổi, đại (to), hoạt (nhanh) đó là mạch Đương; trái lại nếu mạch trầm (sâu) vi (nhỏ), trì (chậm) đó là mạch Âm.

    Khi chữa bệnh thì bệnh Dương phải chữa ở Âm; bệnh Âm phải chữa ở Dương, để điều hòa cho đến lúc thăng bằng thì thôi.

    Nhưng cũng có khi bệnh như Nhiệt mà cho uống thuốc Hàn vào thấy nóng tăng lên, thì phải thấy loại nóng này là do Âm hư, phải chữa bằng cách bổ Âm; nếu bệnh nhân như Hàn mà chữa thuốc nóng vào thấy rét thêm, loại rét này phải nghĩ đến do Dương hư, nên chữa bằng thuốc trợ Dương.

    Trong phép điều trị bằng châm cứu cũng như vậy, bệnh ở Âm phải chữa Dương, bệnh ở Dương phải chữa Âm.

    Trong cơ thể người ta chia làm Lục phủ, Ngũ tạng thì Lục phủ  Đởm, Vị, Đại trường, Tiểu trường, Bàng quang, Tam tiêu thuộc Dương; Ngũ tạng  Tâm, Can, Tỳ, Phế, Thận thuộc Âm.

    Về Khí Huyết thì Khí thuộc Dương, Huyết thuộc Âm.

    Nói về Vinh Vệ thì Vệ thuộc Dương, Vinh thuộc Âm.

3. Dùng thuốc:

    Thuốc Đông y đại khái chia thành 4 Khí 5 Vị và Thăng Giáng Phù Trầm.

    4 khí là: Lạnh và Mát thuộc Âm; Ấm và Nóng thuộc Dương.

    5 vị là: Cay và Ngọt phát tán Dương; Chua và Đắng làm cho đi ngoài, nôn mửa là Âm; Mặn là Âm; Nhạt làm cho tiêu thấp, lợi tiểu là Dương.

    Trong Khí Vị lại chia ra Hậu (đậm đà, nồng nặc), Bạc là nhạt nhẽo, Nhẹ nhàng thì Hậu thuộc Âm, nhưng Khí hậu lại thuộc Dương, vị Bạc thuộc Dương ở trong Âm và khí Bạc lại thuộc Âm ở trong Dương.

    Nói về Thăng Giáng Phù Trầm thì: Thăng và Phù (đi lên, nổi) thuộc Dương; Trầm và Giáng (chìm và đi xuống) thuộc Âm.

    Hiểu được quy luật này thì sẽ hiểu lý luận dùng thuốc của Đông y.

I. Thuyết Ngũ hành

Thuyết Ngũ hành về căn bản cũng là một cách biểu thị luật mâu thuẫn đã giới thiệu trong Thuyết Âm Dương, nhưng bổ sung và làm cho Thuyết Âm Dương hoàn bị hơn.

Ngũ hành  Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.

Người xưa cho rằng mọi vật trong vũ trụ đều chỉ do 5 chất đó phối hợp với nhau mà tạo nên.

Theo tính chất thì:

    Thủy là lỏng, là nước đi xuống, thấm xuống.

    Hỏa là lửa thì bùng cháy, bốc lên.

    Mộc là cây, là gỗ thì mọc lên cong hay thẳng.

    Kim là kim loại, thuận chiều theo hay đổi thay.

    Thổ là đất thì để trồng trọt, gây giống được.

Tinh thần cơ bản của Thuyết Ngũ hành bao gồm hai phương diện giúp đỡ lẫn nhau gọi là Tương sinh và chống lại nhau gọi là Tương khắc.

Trên cơ sở Sinh  Khắc lại thêm hiện tượng Chế hóa  Tương thừa tương vũ.

Tương sinh, Tương khắc, Chế hóa, Tương thừa tương vũ biểu thị mọi sự vật biến hóa phức tạp của sự vật.

IMG


Luật Tương sinh:

    Tương sinh có nghĩa là giúp đỡ nhau để sinh trưởng. Đem Ngũ hành liên hệ với nhau thì thấy 5 hành đó quan hệ xúc tiến lẫn nhau, nương tựa lẫn nhau.

    Theo luật Tương sinh thì Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy lại sinh Mộc và cứ như vậy tiếp diễn mãi, thúc đẩy sự phát triển không bao giờ ngừng.

    Trong luật Tương sinh của Ngũ hành còn bao hàm ý nữa là hành nào cũng có quan hệ về hai phương diện cái Sinh ra nó và cái Nó sinh ra tức là quan hệ Mẫu Tử. Ví dụ Kim sinh Thủy thì Kim là Mẹ của Thủy, Thủy lại sinh ra Mộc vậy Mộc là Con của thủy.

Trong quan hệ Tương sinh lại có quan hệ Tương khắc để biểu hiện cái ý thăng bằng, giữ gìn lẫn nhau.

Luật Tương khắc:

    Tương khắc có nghĩa là Ức chế và Thắng nhau.

    Trong quy luật Tương khắc thì Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc  Mộc lại khắc Thổ, và cứ như vậy tiếp diễn mãi.

    Trong tình trạng bình thường, sự Tương khắc có tác dụng duy trì sự thăng bằng, nhưng nếu Tương khắc thái quá thì lại làm cho sự biến hóa trở ngại khác thường.

    Trong Tương khắc, mỗi hành cũng lại có hai quan hệ giữa Cái thắng nó  Cái nó thắng. Ví dụ hành Mộc thì nó khắc Thổ, nhưng nó lại bị Kim khắc nó.

Hiện tượng Tương khắc không tồn tại đơn độc; trong Tương khắc đã có ngụ ý Tương sinh, do đó vạn vật đều tồn tại và phát triển.

Luật Chế hóa:

    Chế hóa là chế ức là sinh hóa phối hợp với nhau. Trong Chế hóa bao gồm cả hiện tượng Tương sinh  Tương khắc. Hai hiện tượng này gắn liền với nhau.

    Lẽ tạo hóa không thể không có Sinh mà cũng không thể không có Khắc. Không có Sinh thì không có đâu mà nảy nở; không có Khắc thì phát triển quá độ sẽ có hại. Cần phải có Sinh trong Khắc, có Khắc trong Sinh mới có vận hành liên tục, tương phản, tương thành với nhau.

    Quy luật Chế hóa Ngũ hành là:

    Mộc khắc Thổ, Thổ sinh Kim, Kim khắc Mộc.

    Hỏa khắc Kim, Kim sinh Thủy, Thủy khắc Hỏa.

    Thổ khắc Thủy, Thủy sinh Mộc, Mộc khắc Thổ.

    Kim khắc Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa khắc Kim.

    Thủy khắc Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ khắc Thủy.

Luật Chế hóa là một khâu trọng yếu trong Thuyết Ngũ hành. Nó biểu thị sự cân bằng tất nhiên phải thấy trong vạn vật. Nếu có hiện tượng Sinh Khắc thái quá hoặc không đủ thì sẽ xảy ra những sự biến hóa khác thường. Coi bảng dưới chúng ta sẽ thấy mỗi hành đều có mối liên hệ 4 mặt giữa Cái sinh ra nó, Cái nó sinh ra, Cái khắc nó  Cái bị nó khắc.

Ví dụ: Mộc khắc Thổ, nhưng Thổ lại sinh Kim, Kim lại khắc Mộc. Vậy như nếu Mộc khắc Thổ một cách quá đáng, thì Con của Thổ là Kim tất nhiên nổi dậy khắc Mộc kiểu như báo thù cho Mẹ. Nghĩa là bản thân Cái bị khắc có đủ nhân tố chống lại Cái khắc nó. Cho nên Mộc khắc Thổ là để tạo nên tác dụng chế ức, mà duy trì sự cân bằng. Khắc và Sinh đều cần thiết cho sự gìn giữ thế cân bằng trong thiên nhiên.

Cũng trong bảng quan hệ Chế hóa, chúng ta thấy Mộc sinh Hỏa; nếu chỉ nhìn hành Mộc không thôi, thì như Mộc gánh trọng trách gây dựng cho Con là Hỏa, nhưng nhờ có Hỏa mạnh hạn chế bớt được sức của Kim là một hành khắc Mộc; như vậy Mộc sinh Con là Hỏa, nhưng nhờ có Con là Hỏa mạnh mà hạn chế được Kim làm hại Mộc, do đó Mộc giữ cương vị.


Sách "Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam"

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI


Xin vui lòng ghi rõ nguồn www.dotatloi.com" khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

Muối ăn
06/07/2025 08:59 CH

- 食鹽 (食盐). Còn gọi là thực diêm. Tên khoa học Natrium chloridum crudum. Muối ăn là những tinh thể hình lập phương dính với nhau thành hình tháp rỗng, không màu hay hơi đục bẩn, vị mặn, đặc biệt để ở những nơi ẩm ướt thì hay hút nước chảy ướt, nhưng khi rang...

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Niễng - 茭白. Còn gọi là cô mễ, giao cẩn, lúa miêu, của niễng, giao bạch tử. Tên khoa học Zizania latifolia Turcz, (Zizania aquatica L., Zizapia dahurica Steud, Hydropyrum latifolium Griseb., Limnochloa caduciflora Turcz.). Thuộc họ Lúa Poeceae (Gramineae). Cây niễng cho vị thuốc là giao bạch tử. Giao bạch tử (Fructsus Zizaniae) là quả cây niễng phơi hay sấy khô.
Niệt gió - 了哥王. Còn gọi là gió niệt, gió cánh, gió miết, gió chuột, liễu kha vương, lĩnh nam nguyên hoa, cửu tin thảo, sơn miên bì, địa ba ma, độc ngư đằng. Tên khoa học Wikstroemia indica C. A. Mey. (Wikstroemia viridiflora Meissn, Daphne cannabina Lour.). Thuộc họ Trầm (Thymeleaceae).
Nọc ong - 蜂毒. Nọc ong là một vị thuốc được nhân dân nhiều nước châu Á và châu Âu biết dùng từ lâu để chữa nhiều bệnh khác nhau. Nọc ong là sản phẩm của những tuyến đặc biệt trong cơ thể con ong, muốn dùng nọc ong trước đây người ta cho con ong đốt, hay có khi người ta uống con ong, gần đây người ta lấy nọc ong riêng rồi chế thành thuốc với những dạng khác nhau như nhũ dịch, dầu bôi có nọc ong, thuốc tiêm dưới da, di chuyển ion (ionphorese). Muốn lấy nọc ong hàng loạt, người ta thường kích thích con ong bằng cách giết chết một con ong, đặt lên một màng mỏng có dòng điện, khi những con ong khác đậu vào bị dòng điện kích thích sẽ "đốt " màng mỏng. Nọc chảy ra người ta hứng lấy để chế thuốc.
Núc nác - 千張紙 (千张纸). Còn gọi là so đo thuyền, lin may, mộc hồ điệp, ung ca (Lào-Viêntian), k'nốc (Buônmêthuột), nam hoàng bá, hoàng bá nam, thiêu tầng chỉ, bạch ngọc nhi, thiên trương chỉ (Vân Nam) triểu giản (Quảng Tây). Tên khoa học Oroxylum indicum (L.), Vent (Bignonia indica L., Calosanthes indica Blume). Thuộc họ Chùm ớt (Bignoniaceae). Cây núc nác cung cấp cho ta hai vị thuốc: (1) Vỏ núc nác (Cortex Oroxyli) là vỏ thân phơi hay sấy khô của cây núc nác; (2) Hạt núc nác (Semen Oroxyli) là hạt phơi hay sấy khô của cây núc nác. Hạt núc nác làm thuốc có tên mộc hồ điệp (mộc là gỗ, cây; hồ điệp là con bướm) vì hạt trông giống như con bướm bằng gỗ.
Nước bọt - 唾液. Còn gọi là nước dãi, nước miếng, thần thuỷ (nước thần), quỳnh dịch (nước ngọc), ngọc tương (nước ngọc), kim tân gọc dịch, quỳnh dịch dưỡng sinh pháp (phép dưỡng sinh bằng nước bọt). Tên khoa học Saliva.
Nước tiểu - 人尿. Còn gọi là đồng tiện, nhân niệu, luân hồi tửu, hoàn nguyên thang. Tên khoa học Urina Hominis. Trong những tên khác nhau tên đồng tiện chỉ dành chỉ nước tiểu của trẻ em, thường là của trẻ em trai, dưới 12 tuổi, mạnh khỏe. Nhưng trong những tài liệu cổ, ngoài nước tiểu trẻ em ra, người ta dùng cả nước tiểu người lớn với tên nhân niệu (nước tiểu của người lớn). Rồi vì không coi nước tiểu của người lớn là chất cặn bã do người thải ra, mà là vị thuốc quý nếu biết dùng nên mới gọi là luân hồi tửu (thứ rượu uống vào, thải ra lại uống vào), hoàn nguyên thang (thang thuốc đưa trở về cội nguồn). Trong 24 giờ, hai quả thận lọc được từ máu 180 lít nước (gấp 3 lần trọng lượng cơ thể 50kg). Nếu không đưa lượng nước ấy (trong đó có chất muối và nhiều chất khoáng vô cùng cần thiết cho cuộc sống của con người) thì con người sống sao nổi. Cho nên một phần lớn nước đó được đưa trở lại nuôi cơ thể, còn một phần thải ra dưới dạng nước tiểu, mồ hôi, ...
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]